Con người là nguồn lực vô cùng quan trọng của một quốc gia nói chung và
một doanh nghiệp nói riêng. Con người góp phần vào sự phát triển của xã
hội, vào thành công của bất kỳ một doanh nghiệp nào,vì thế cạnh tranh để
có vốn con người trở nên gay gắt hơn. Đặc biệt trước sự phát triển mạnh
mẽ của thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang không ngừng biển đổi,khẳng
định vị thế đất nước trên thị trường thế giới. Nhất là từ khi trở thành thành
viên chính thức của WTO-Tổ chức thương mại thế giới,đã, đang và sẽ tạo
ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước thâm nhập vào thị trường
thế giới,có điều kiện khẳng định bản lĩnh tên tuổi của mình.Bên cạnh
những cơ hội thuận lợi các doanh nghiệp trong nước còn gặp rất nhiều
thách thức, đó là đối mặt với những công ty hùng hậu,có những khoảng
cách lớn về khoa học công nghệ kỹ thuật lại còn phải chiều lòng các thị
trường khó tính : Châu Âu,Châu Mĩ mà khó khăn lớn nhất là đội ngũ cán
bộ có trình độ cao, hiện tượng chảy máu chất xám ở các doanh nghiệp
trong nước đang diễn ra rất nhiều, bài toán đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là
gìn giữ được lao động giỏi,lao động có tay nghề cao.Hơn thế nữa trong
những năm gần đây, mức sống ngày càng cải thiện , nhu cầu con người đã
có biến đổi, họ không còn mong muốn được ăn no mặc ấm nữa mà nhu
cầu cao hơn ăn ngon mặc đẹp, người lao động cũng vậy chính sách lương
cao, thưởng nhiều không còn trở nên quan trọng trong quyết định gia nhập
vào doanh nghiệp của họ, chú ý đến những đãi ngộ, BHXH, điều kiện làm
việc, cơ hội thăng tiến,trợ cấp, dịch vụ, Trở nên có ý nghĩa hơn đối với
mỗi người lao động, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không còn là sản
phẩm mà quan trọng hơn là gìn giữ và thu hút được lao động có trình độ,
góp phần gầy dựng văn hoá doanh nghiệp, tăng uy tín công ty,các chính
sách phúc lợi ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong công tác Quản Trị
Nhân Lực,thông qua Bảo Hiểm Xã Hội, Bảo Hiểm Y Tế, Bảo Hiểm Thất
Nghiệp cùng với hàng loạt các trợ cấp và dich vụ phúc lợi đem lại cho
người lao động, cho cả doanh nghiệp và xã hội.Với ích lợi vậy tại sao các
doanh nghiệp không xây dựng nhiều chương trình phúc lợi hơn, phải
chăng lý do một phần chi phí quá lớn mà không phải bất kỳ tổ chức nào
cũng đủ tiềm lực tài chính gánh vác,một lý do khác có thể là quản lý
chương trình gặp khó khăn nếu người quản lý thiếu kinh nghiệm, trình
độ.
24 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2610 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và quản lý chương trình phúc lợi là yếu tố quan trọng trong công tác quản trị nhân lực hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Xây dựng và quản lý chương trình
phúc lợi là yếu tố quan trọng trong
công tác Quản trị nhân lực hiệu quả
Lời mở đầu
Con người là nguồn lực vô cùng quan trọng của một quốc gia nói chung và
một doanh nghiệp nói riêng. Con người góp phần vào sự phát triển của xã
hội, vào thành công của bất kỳ một doanh nghiệp nào,vì thế cạnh tranh để
có vốn con người trở nên gay gắt hơn. Đặc biệt trước sự phát triển mạnh
mẽ của thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang không ngừng biển đổi,khẳng
định vị thế đất nước trên thị trường thế giới. Nhất là từ khi trở thành thành
viên chính thức của WTO-Tổ chức thương mại thế giới,đã, đang và sẽ tạo
ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước thâm nhập vào thị trường
thế giới,có điều kiện khẳng định bản lĩnh tên tuổi của mình.Bên cạnh
những cơ hội thuận lợi các doanh nghiệp trong nước còn gặp rất nhiều
thách thức, đó là đối mặt với những công ty hùng hậu,có những khoảng
cách lớn về khoa học công nghệ kỹ thuật lại còn phải chiều lòng các thị
trường khó tính : Châu Âu,Châu Mĩ…mà khó khăn lớn nhất là đội ngũ cán
bộ có trình độ cao, hiện tượng chảy máu chất xám ở các doanh nghiệp
trong nước đang diễn ra rất nhiều, bài toán đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là
gìn giữ được lao động giỏi,lao động có tay nghề cao.Hơn thế nữa trong
những năm gần đây, mức sống ngày càng cải thiện , nhu cầu con người đã
có biến đổi, họ không còn mong muốn được ăn no mặc ấm nữa mà nhu
cầu cao hơn ăn ngon mặc đẹp, người lao động cũng vậy chính sách lương
cao, thưởng nhiều không còn trở nên quan trọng trong quyết định gia nhập
vào doanh nghiệp của họ, chú ý đến những đãi ngộ, BHXH, điều kiện làm
việc, cơ hội thăng tiến,trợ cấp, dịch vụ,…Trở nên có ý nghĩa hơn đối với
mỗi người lao động, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không còn là sản
phẩm mà quan trọng hơn là gìn giữ và thu hút được lao động có trình độ,
góp phần gầy dựng văn hoá doanh nghiệp, tăng uy tín công ty,các chính
sách phúc lợi ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong công tác Quản Trị
Nhân Lực,thông qua Bảo Hiểm Xã Hội, Bảo Hiểm Y Tế, Bảo Hiểm Thất
Nghiệp cùng với hàng loạt các trợ cấp và dich vụ phúc lợi đem lại cho
người lao động, cho cả doanh nghiệp và xã hội.Với ích lợi vậy tại sao các
doanh nghiệp không xây dựng nhiều chương trình phúc lợi hơn, phải
chăng lý do một phần chi phí quá lớn mà không phải bất kỳ tổ chức nào
cũng đủ tiềm lực tài chính gánh vác,một lý do khác có thể là quản lý
chương trình gặp khó khăn nếu người quản lý thiếu kinh nghiệm, trình
độ.Đứng trứơc bức thiết đòi hỏi của thực tế em chọn đề tài " Xây dựng và
quản lý chương trình phúc lợi là yếu tố quan trọng trong công tác Quản
trị nhân lực hiệu quả".Cùng với mục đích cách nhìn nhận về vai trò quan
trọng quản lý một chương trình phúc lợi tốt.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu các doanh nghiệp hoạt động trong
khoảng 10 năm
Cơ sở lí luận về QTNL và Phúc lợi
1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm QTNL
Có khá nhiều cách hiểu về Quản trị nhân lực, ngay cả tên gọi QTNL cũng
còn gọi khác như: Quản lý nguồn nhân lực, Quản trị nhân sự, Quản lý tài
nguyên nhân sự,…Song dù hiểu ở góc độ nào đi nữa thì mục đích hướng về
con người "là tất cả các hoạt động của một tổ chức để thu hút, xây dựng, phát
triển,sử dụng, đánh giá, bảo toàn và giữ gìn một lực lượng lao động phù hợp
với yêu cầu công việc của tổ chức cả về mặt số lượng và chất lượng."(1).Hay
các định nghĩa"QTTNNS là sự phối hợp một cách tổng thể các hoạy động
hoạch định, tuyển mộ, tuyển chọn, duy trì, phát triển, động viên và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tái nguyên nhân sự thông qua tổ chức,nhằm đạt được
mục tiêu chiến lược và định hướng viễn cảnh của tổ chức."(2),"Quản trị lao
động là lĩnh vực theo dõi, hướng dẫn, điều chỉnh,kiểm tra sự trao đổi chất
(năng lượng,thần kinh,bắp thịt) giữa con người với các yếu tố vật chất của tự
nhiên (công cụ, đối tượng lao động, năng lượng…) trong quá trình tạo ra của
cải vật chất, tinh thần, để thoả mãn nhu cầu của con người, nhằm duy trì bảo
vệ, sử dụng và phát triển sức tiềm năng vô tận của con người."(3)
Còn rất nhiều cách hiểu về QTNL khác nhau trên đây là một số các khái
niệm, qua những định nghĩa trên cho ta thấy một cách tổng thể tất cả các hoạt
động của công tác quản trị nhân lực gồm những gì, công tác muốn hiệu quả
thì mỗi khâu thực hiện đều phải tốt, hợp lý: Thu hút được lao động giỏi sẽ tiết
kiệm chi phí đào tạo,phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý đem lại năng
suất lao động cao, đánh giá thực hiện công việc công bằng góp phần gìn giữ
lao động giỏi,…Quá trình thực hiện công tác mất tác dụng nếu một khâu
không hợp lý,cả công tác quản lý con người nhằm mục tiêu nâng cao hiệu
suất sử dụng nguồn nhân lực đạt mục tiêu của tổ chức đề ra.
Vai trò QTNL
Con người là yếu tố cấu thành nên tổ chức,vận hành hoạt động và quyết
định sự thành bại của tổ chức,vai trò đó ngày càng trở nên quan trọng hơn khi
khoa học công nghệ phát triển, dù có thể tạo ra nhiều người máy làm việc như
con người đi chăng nữa nhưng về bản chất nó vẫn là những vật vô tri, nhờ sự
tác động lịch trình con người cài vào những người máy đó mới hoạt động
được, bên cạnh đó con người hoàn toàn có thể phát minh tạo ra những cỗ máy
hiện đại hơn thay thế song không bao giờ có một cỗ máy nào có thể thay thế
con người,con người tiềm ẩn tài năng, biết khai thác,sử dụng hợp lý sẽ đem
lại hiệu quả cao nhưng không phải ai, doanh nghiệp nào làm được.Nguồn lực
con người là một trong bốn nguồn vốn quan trọng tạo sự nên sự phát triển của
tổ chức.quản lý nguồn lực đó sao cho đạt hiệu quả là một vấn đề khó khăn
nhiều doanh nghiệp gặp phải, đã có nhiều doanh nghiệp phá sản mà nguyên
nhân sâu xa là quản lý không tốt nguồn lực con người của mình. Công tác thu
hút,gìn giữ đào tạo và phát triển là một trong nhóm chức năng quan trọng mà
doanh nghiệp cần chú trọng.Hơn thế nữa nhu cầu con người ngày một tăng
lên để duy trì nguồn nhân lực thì lương cao chưa hẳn là biện pháp tốt,hãy để
cho người lao động tự nhận thấy được họ được quan tâm có cơ rất nhiều cơ
hội để thăng tiến,ngoài tiền lương ra hiện nay chính sách phúc lợi đặc biệt là
các loại hình dịch vụ phúc lợi được khá nhiều tổ chức áp dụng và đem lại kết
quả tốt cũng như được người lao động trong tổ chức ấy quan tâm và ủng
hộ.Xem xét phúc lợi có những tác dụng như thế nào đến các chính sách nhân
lực như thế nào,ảnh hưởng đến lao động ra làm sao, trước tiên xem khái niệm
về phúc lợi.
Khái niệm và ý nghĩa của phúc lợi
1.3.1. Khái niệm
Mỗi người có cách nghĩ hiểu khác nhau,có người cho rằng các chính
sách đó phải là “trợ cấp cho công nhân viên “ (4) hay có người gọi đó là phúc
lợi thì tựu chung lại đó là gián tiếp của thù lao,tức là không được trả bằng tiền
mặt mà dưới dạng các hỗ trợ về cuộc sống cho công nhân, là những ích lợi từ
: Bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm mất khả năng lao động,các dịch vụ như: mua
cổ phần của công ty với giá ưu đãi, hỗ trợ nhà cửa, xe cộ, chăm sóc y tế…
Người lao động có cơ hội đào tạo nâng cao tay nghề bằng dịch vụ xã hội trợ
cấp giáo dục được quan tâm đến sức khỏe với dịch vụ bảo hiểm sức khoẻ,
chương trình thể dục thể thao.Thực chất phúc lợi là dạng thù lao phi vật chất
song ngày nay nó được biến tấu đi khá nhiều thường thì người lao động nhận
được lợi ích từ các chính sách phúc lợi, họ nhận được phiếu học tiếng anh
thay vì nhận một khoản tiền để học đấy là bản chât của phúc lợi, tuy nhiên
hiện nay các hỗ trợ đôi khi vẫn bằng tiền mặt ví dụ như với chương trình đi
du lịch thì người nào không đi sẽ nhận một khoản tiên khác “công ty Cổ phần
Giầy Da Phúc Yên trả cho những người không tham gia đi du lịch cùng công
ty hai trăm nghìn một người” điều đó có thể cho thấy sự thích nghi với thị
trường, mỗi nước có những quy định về phúc lợi khác nhau cũng như mỗi tổ
chức có các chương trình phúc lợi riêng biệt tạo nên văn hoá doanh nghiệp
của tổ chức mình, hịên nay theo luật lao động bổ sung đã áp dụng chế độ trợ
cấp thất nghiệp cho người lao động cùng với một số bổ sung khác trong phúc
lợi bắt buộc về chế độ thai sản, điều này chứng tỏ sự quan tâm của xã hội và
các tổ chức đến mong muốn của người lao động, với sự chú trọng đó càng
khẳng định được ý nghĩa to lớn của phúc lợi đến bộ ba (doanh nghiệp,người
lao động,xã hội ), để biết xem phúc lợi và các dịch vụ tác động đến ba đối
tượng trên theo mức độ như thế nào ta lần lượt xem ảnh hưởng của phúc lợi.
1.3.2. Sự tác động của phúc lợi đến ba đối tượng
1.3.2.1 Tác động đến người lao động
Tiền lương,tiền công là khoản thù lao trả trực tiếp cho người lao động
ảnh hưởng trực tiếp đên cuộc sống của người lao động, được họ quan tâm rất
nhiều khi lựa chọ doanh nghiệp cho mình tuy vậy tiền lương chỉ được quan
tâm nhiều khi mức sống tối thiểu của người lao động còn hạn chế, họ mong
muốn có thù lao cao để trang trải cho cuộc sống của mình, đó là điều dễ
hiểu, theo thuyết nhu cầu của Maslow nhu cầu con người ngày một tăng và
điều đầu tiên nhu cầu tối thiểu về ăn , mặc, ở phải được đảm bảo, trong
những năm gần đây mức sống con người đã được cải thiện từ chỗ mong
muốn ăn no mặc đủ tiến tới ăn ngon mặc đẹp ,từ chỗ nhận thức về luật lao
động yếu kém dần hiểu biết về pháp luật nói chung và luật lao động noí
riêng, những năm trước đây sự yếu kém trong nhận thức pháp luật mà rất
nhiều lao động bị người chủ sử dụng lao động lợi dụng, ví dụ như việc trích
lương đóng bảo hiểm xã hội cho lao động trong khi hợp đồng lao động dưới
ba tháng, lợi dụng sự kém hiểu biết đó rất nhiều lao động chịu thiệt thòi. Các
dịch vụ, trợ cấp và bảo hiểm xã hội ảnh hưởng rất lớn đến người lao động dù
không giống như lương liên quan trực tiếp đến năng suất lao động, không
được coi là phương tiện trực tiếp động viên nhân viên, nó tác động gián tiếp
lên nhân viên về mặt tinh thần,các bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bổ sung
thêm trợ cấp thất nghiệp bắt buộc góp phần ổn định, duy trì và nâng cao đời
sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người lao động, người lao động sẽ
nhận được lương hưu khi hết tuổi lao động,có chế độ chăm sóc nếu gặp tai
nan lao động hay bệnh nghề nghiệp,được hưởng toàn bộ tiền lương trong
thời gian mang thai cũng như sau khi sinh nở…Các dịch vụ phúc lợi và trợ
cấp thì đem lại cho người lao động cuộc sống tinh thần thật thoải mái, được
tạo mọi điều kiện hỗ trợ làm việc, có cơ hội học tập đào tạo nâng cao tay
nghề bằng các dịch vụ xã hội trợ cấp giáo dục, có những dịch vụ y tế khám
sức khoẻ hằng kỳ đảm bảo thể lực tốt, với chương trình du lịch, dã ngoại tạo
không khí thân thiện cho người lao động, từ việc tinh thần thoải mái nhân
viên cảm thấy giá trị bản thân mình nâng lên, thấy được sự tôn trọng từ tổ
chức có động lực làm việc thực hiện tốt công việc đặt ra dẫn đến năng suất
tăng lên, nhất là dịch vụ mua cổ phiếu với giá ưư đãi góp phần tạo cho nhân
viên có trách nhiệm cao trong công việc vì nó gắn liền với lợi ích họ nhận
được từ cổ phần,bất kỳ ai cũng vậy khi được trao quyền lực thì ắt tự nhận
thấy trách nhiệm của bản thân, hơn nữa lợi ích cá nhân được khẳng định kéo
theo lòng nhiệt tình cống hiến hết mình tăng cao cơ hội có nhiều phát minh
sáng tạo, đồng thời không có lý do gì mà nhân viên lại ra đi .Đây là xu thế
ngày nay người lao động quan tâm đến phúc lợi rất nhiều có khi họ sẵn sàng
từ bỏ mức lương “ Một nghìn đô” để đổi lấy “ Tám trăm đô”(5) lý do gì
khiến người lao động lại từ bỏ mức lương cao ngât ngưởng đó có rất nhiều
lý do nhưng một trong những lý do đó là sự đối đãi tử tế của doanh nghiệp
lam cho người lao động tin tưởng vào lựa chọn của bản thân, hơn thế nữa
người Việt Nam rất coi trọng tình cảm con người khi được người khác quan
tâm cảm nhận được sự thành thật từ đối phương thì lúc đó họ sẵn sàng hi
sinh vì người đó, trong trang web " giữ chân người tài: lương cao không phải
là tất cả" một ví dụ điển hình từ người đã khá thành đạt anh Trương Hoài
Bão phó phòng nhân sự công ty thương mại và dịch vụ công ty Eden thuộc
tổng công ty du lịch Sài Gòn tâm sự " trước khi "đầu quõn" về Eden đó từng
làm cho một cụng ty của Singapore. "Tụi đặc biệt ấn tượng trong ngày làm
việc đầu tiờn. Buổi trưa, lónh đạo của tụi mang tới cho tụi một cỏi chiếu và
chỉ cho tụi chỗ nghỉ trưa. Điều này tuy hết sức nhỏ nhặt nhưng đó phản ỏnh
một điều rằng lónh đạo luụn quan tõm chăm súc đến cả giấc ngủ của nhõn
viờn".(5)
Thu hút và giữ chân được người tài đã hoàn toàn là những gì phúc lợi mang
lại cho doanh nghiệp chưa? Hãy xem xét chương trình phúc lợi ảnh hưởng
đến doanh nghiệp như thế nào
1.3.2.2 Phúc lợi và sự ảnh hưởng đến tổ chức
Một tổ chức muốn hoạt động phải có đủ bốn nguồn lực về vốn, khoa
học công nghệ, nhà xưởng, máy móc và con người.Trong bốn yếu tố đó con
người là nguồn lực vô cùng quan trọng góp phần vào sự thành bại của doanh
nghiệp, vì thế mà cạnh tranh về nguồn vốn nhân lực là chiến lược tối ưu giữa
các doanh nghiệp đã đang và sẽ diễn ra gay go khốc liệt hơn "hiện nay có
khoảng 250 nghiệp không đủ chỗ cho người tài" biết chớp lấy thời cơ và
nắm được nhu cầu của người lao động như thế nào sẽ đem lại thành công
cho doanh nghiệp, nắm được nhu cầu muốn khẳng định giá trị bản thân
mình, muốn có nhiều cơ hội thăng tiến ngày càng cao của nhân viên từ đó
có kế hoạch thích hợp vì thế các chính sách đãi ngộ cụ thể về các dịch vụ
phúc lợi trở nên cần thiết, phúc lợi đem lại cho tổ chức nhiều ích lợi, thông
qua sự hài lòng thoả mãn về công việc hiệu quả công việc sẽ tăng lên thể
hiện ở năng suất lao động cao, hạn chế tối thiểu lãng phí lao động trong quá
trình sản xuất như thời gian lao động, phế liệu, giảm thiểu tai nạn lao
động,với các chương trình phúc lợi tạo mối quan hệ lao động tốt giữa người
lao động và người sử dụng lao động, tránh được chi phí bãi công, đình công
nảy sinh.Lợi ích giữa chủ doanh nhiệp và lao động thường đối lập với nhau:
người chủ muốn giảm được nguồn chi phí về lương,thưởng,đãi ngộ càng
nhiều càng tốt còn ngược lại người lao động muốn có lương thưởng cao,
chính sách đãi ngộ nhiều,mâu thuẫn lớn, dần hố sâu ngăn cách rộng lên nếu
không có bên nào chịu giảm bớt lợi ích cho mình,phúc lợi chính là sợi dây
nối mang lại cho cả đôi bên ích lợi, “giúp lên dây cót tinh thần cho công
nhân viên”(6),một tác dụng lớn mà các dịch vụ phúc lợi đem lại là bảo tồn
phát triển lực lượng lao động có trình độ cao,giảm chi phí đào tạo cũng như
tổn thất mà lao động mang lại nếu hằng năm có lượng lao động thuyên
chuyển,nghỉ việc.Xây dựng chương trình phúc lợi tốt đem lại uy tín, hình
ảnh cho doanh nghiệp nâng cao văn hoá doanh nghiệp.Bên cạnh đó phúc lợi
là khoản chi phí trong tổng chi phí lương của tổ chức, nó có xu hướng tăng
lên “ Tại Mỹ, Cannada, Nhật và một số nước phát triển chi phí phúc lợi
chiếm trên 38% tổng chi phí”(7) có thể nói là con số khá cao dù theo quy
định của nước ta hiên nay “ Trích tối đa không quá 2 tháng lương vào quỹ
phúc lợi và quỹ phát triển” hay “trích 10% trong tổng lợi nhuận sau thuế”(8)
với các công ty có tiềm lực hạn chế về tài chính thì đây là khó khăn lớn
chính vì thế các công ty cần phải xây dựng mục tiêu chiến lược kinh doanh
hợp lý từ đó xây dựng và quản lý chương trình phúc lợi hiệu quả vừa giảm
chi phí vừa phát huy tác dụng.Không chỉ có ý nghĩa đối với doanh
nghiệp,người lao động phúc lợi còn có ý nghĩa lớn đối với xã hội
1.3.2.3 Ảnh hưởng đến xã hội
Hằng năm chính phủ đều phải trích ra lượng ngân sách nhà nước khá
lớn vào các hoạt động trợ cấp cho nhân dân nói chung và người lao động nói
riêng có hoàn cảnh khó khăn, với sự hình thành quỹ phúc lợi mà nhân viên
và công ty đóng góp đã có ý nghĩa to lớn giảm bớt gánh nặng cho xã hội về
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…nếu không có phúc
lợi thì ngân sách nhà nước không đủ để bảo đảm hỗ trợ cho mọi người, đồng
thời hạn chế các tệ nạn xã hội gây ra từ lao động thất nghiệp nhiều.Không
những vậy các doanh nghiệp còn sử dụng quỹ phúc lợi vào các việc làm từ
thiện vào các hoạt động an sinh xã hội…đóng góp vào quá trình xây dựng ổn
định đất nước, từ việc điều tiết chi trả các loại bảo hiểm nhà nước thể hiện
vai trò điều tiết xã hội, quan tâm đến lợi ích cho người lao động nhiều hơn.
II. Mối quan hệ giữa xây dựng ,quản lý chương trình phúc
lợi và công tác QTNL hiệu quả
2.1. Mục tiêu xây dựng chương trình phúc lợi
Cái đích doanh nghiệp hướng tới đối tượng là ai? mục đích đem lại
cái gì? rõ ràng xây dựng chương trình phúc lợi nằm trong xây dựng mục tiêu
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, tuỳ từng giai đoạn mà có các hoạt
động dịch vụ thích hợp nhưng trong đó đảm bảo những mục tiêu cơ bản,
từng bước duy trì nâng cao đời sống vật chất cho người lao động của tổ chức
mình, muốn cho nhân viên mình tâm lý ổn định yên tâm công tác thì chú ý
đến cuộc sống của người lao động, bằng các trợ cấp hỗ trợ cho công nhân
viên khi họ gặp khó khăn nhất là về nhà cửa, xe cộ, các dịch vụ chăm sóc
cho con cái họ, chăm sóc sức khoẻ để họ có đầy đủ điều kiện phát triển khả
năng của mình, để nhân viên nghe làm theo điều doanh nghiệp đề ra phảI tạo
được niềm tin từ phía lao động, không phảI lúc nào công ty hoạt động kinh
doanh cũng thuận lợi cho nên cơ bản đầu tiên hãy đảm bảo mức sống vật
chất tối thiểu. Có những doanh nghiệp mục tiêu nhằm mở rộng thị trường
hay chỉ co hẹp thị trường kinh doanh của mình lại lúc đó quan trọng đối với
tổ chức là đầu tư về công nghệ kỹ thuật tạo phong phú về sản phẩm, các
chương trình trợ cấp sẽ khác khi doanh nghiệp đang cần cạnh tranh thu hút
lao động cần nhiều chính sách phúc lợi hơn. Có thể nói chiến lược kinh
doanh quyết định đến giỏ trợ cấp của doanh nghiệp.
Đảm bảo mức sống cho công nhân viên chỉ nhằm mục đích sâu xa tác
động gián tiếp duy trì và nâng cao năng suất lao động, đôI khi lương hay
thưởng chưa đủ kích thích tăng năng suất lao động song với các dịch vụ
phúc lợi tạo ra đem lại năng suất lao động cao, với chương trình dã ngoại, tổ
chức các hoạt động thể dục thể thao tạo cho người lao động có nhiếu sáng
kiến cảI tiến kỹ thuật giúp tăng năng suất, dù tổ chức đưa ra các chính sách
khuyến khích về lương hay một số chính sách khác thì cũng nhằm đạt được
hiệu suất sử dụng lao động hiệu quả, hiệu quả cả không chỉ ở tăng năng suất
mà còn giảm chi phí các loại, sản xuất được nhiều sản phẩm nhưng thời gian
hao phí quá nhiều,quá nhiều phế liệu sinh ra thì đó không được coi là tăng
năng suất lao động, sử dụng hiệu quả thời gian lao động cũng chính là nâng
cao năng suất lao động.
Không chỉ đặt ra mục tiêu nâng cao năng suất lao động, duy trì mức
sống vật chất và tinh thần cho người lao động các doanh nghiệp kỳ vọng ở
chương trình phúc lợi đem lại cho người lao động thấy được phong cách
lãnh đạo của người chủ, tạo mối quan hệ lao động trong tổ chức tốt đẹp hơn
góp phần xây dựng một nền văn hóa lành mạnh phát triển.Với các doanh
nghiệp hiện nay dù là lớn hay nhỏ đều tiến tới thành lập các tổ chức công
đoàn với tư cách đại diện cho quyền lợi của người lao động, xây dựng
chương trình phúc lợi để tạo cho công nhân viên thấy được tiếng nói của
mình có trọng lượng, đòi hỏi quyền lợi thông qua công đoàn với bản thỏa
ước lao động khẳng định doanh nghiệp rất quan tâm đến người lao động,
tâm lý chung của bất kỳ lao động nào trong tổ chức đều muốn có một tổ
chức thay mặt họ nói lên nguyện vọng của bản thân, nhiều khi một người lao
động muốn đòi hỏi quyền lợi dễ bị chèn ép hơn là có tập thể lao động cùng
đứng lên, họ luôn tin tưởng vào công đoàn có thể ví công đoàn giống như
người hòa giảI hữu ích cho đôI bên lao động khi có những tranh chấp về
quyền lợi, các công ty rất sợ đình, bãi công diễn ra vì ảnh hưởng rất lớn đến
sản xuất mà còn tác động không tốt đến hình ảnh công ty trên thị trường.
Chính vì thế đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của đại diện người lao động tạo bầu
không khí hoà đồng góp phần chứng minh được vai trò đi