Con người là nguồn lực vô cùng quan trọng của một quốc gia nói chung và 
một doanh nghiệp nói riêng. Con người góp phần vào sự phát triển của xã 
hội, vào thành công của bất kỳ một doanh nghiệp nào,vì thế cạnh tranh để 
có vốn con người trở nên gay gắt hơn. Đặc biệt trước sự phát triển mạnh 
mẽ của thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang không ngừng biển đổi,khẳng 
định vị thế đất nước trên thị trường thế giới. Nhất là từ khi trở thành thành 
viên chính thức của WTO-Tổ chức thương mại thế giới,đã, đang và sẽ tạo 
ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước thâm nhập vào thị trường 
thế giới,có điều kiện khẳng định bản lĩnh tên tuổi của mình.Bên cạnh 
những cơ hội thuận lợi các doanh nghiệp trong nước còn gặp rất nhiều 
thách thức, đó là đối mặt với những công ty hùng hậu,có những khoảng 
cách lớn về khoa học công nghệ kỹ thuật lại còn phải chiều lòng các thị 
trường khó tính : Châu Âu,Châu Mĩ mà khó khăn lớn nhất là đội ngũ cán 
bộ có trình độ cao, hiện tượng chảy máu chất xám ở các doanh nghiệp 
trong nước đang diễn ra rất nhiều, bài toán đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là 
gìn giữ được lao động giỏi,lao động có tay nghề cao.Hơn thế nữa trong 
những năm gần đây, mức sống ngày càng cải thiện , nhu cầu con người đã 
có biến đổi, họ không còn mong muốn được ăn no mặc ấm nữa mà nhu 
cầu cao hơn ăn ngon mặc đẹp, người lao động cũng vậy chính sách lương 
cao, thưởng nhiều không còn trở nên quan trọng trong quyết định gia nhập 
vào doanh nghiệp của họ, chú ý đến những đãi ngộ, BHXH, điều kiện làm 
việc, cơ hội thăng tiến,trợ cấp, dịch vụ, Trở nên có ý nghĩa hơn đối với 
mỗi người lao động, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không còn là sản 
phẩm mà quan trọng hơn là gìn giữ và thu hút được lao động có trình độ, 
góp phần gầy dựng văn hoá doanh nghiệp, tăng uy tín công ty,các chính 
sách phúc lợi ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong công tác Quản Trị 
Nhân Lực,thông qua Bảo Hiểm Xã Hội, Bảo Hiểm Y Tế, Bảo Hiểm Thất 
Nghiệp cùng với hàng loạt các trợ cấp và dich vụ phúc lợi đem lại cho 
người lao động, cho cả doanh nghiệp và xã hội.Với ích lợi vậy tại sao các 
doanh nghiệp không xây dựng nhiều chương trình phúc lợi hơn, phải 
chăng lý do một phần chi phí quá lớn mà không phải bất kỳ tổ chức nào 
cũng đủ tiềm lực tài chính gánh vác,một lý do khác có thể là quản lý 
chương trình gặp khó khăn nếu người quản lý thiếu kinh nghiệm, trình 
độ.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2813 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và quản lý chương trình phúc lợi là yếu tố quan trọng trong công tác quản trị nhân lực hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Xây dựng và quản lý chương trình 
phúc lợi là yếu tố quan trọng trong 
công tác Quản trị nhân lực hiệu quả
 Lời mở đầu 
Con người là nguồn lực vô cùng quan trọng của một quốc gia nói chung và 
một doanh nghiệp nói riêng. Con người góp phần vào sự phát triển của xã 
hội, vào thành công của bất kỳ một doanh nghiệp nào,vì thế cạnh tranh để 
có vốn con người trở nên gay gắt hơn. Đặc biệt trước sự phát triển mạnh 
mẽ của thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang không ngừng biển đổi,khẳng 
định vị thế đất nước trên thị trường thế giới. Nhất là từ khi trở thành thành 
viên chính thức của WTO-Tổ chức thương mại thế giới,đã, đang và sẽ tạo 
ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước thâm nhập vào thị trường 
thế giới,có điều kiện khẳng định bản lĩnh tên tuổi của mình.Bên cạnh 
những cơ hội thuận lợi các doanh nghiệp trong nước còn gặp rất nhiều 
thách thức, đó là đối mặt với những công ty hùng hậu,có những khoảng 
cách lớn về khoa học công nghệ kỹ thuật lại còn phải chiều lòng các thị 
trường khó tính : Châu Âu,Châu Mĩ…mà khó khăn lớn nhất là đội ngũ cán 
bộ có trình độ cao, hiện tượng chảy máu chất xám ở các doanh nghiệp 
trong nước đang diễn ra rất nhiều, bài toán đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là 
gìn giữ được lao động giỏi,lao động có tay nghề cao.Hơn thế nữa trong 
những năm gần đây, mức sống ngày càng cải thiện , nhu cầu con người đã 
có biến đổi, họ không còn mong muốn được ăn no mặc ấm nữa mà nhu 
cầu cao hơn ăn ngon mặc đẹp, người lao động cũng vậy chính sách lương 
cao, thưởng nhiều không còn trở nên quan trọng trong quyết định gia nhập 
vào doanh nghiệp của họ, chú ý đến những đãi ngộ, BHXH, điều kiện làm 
việc, cơ hội thăng tiến,trợ cấp, dịch vụ,…Trở nên có ý nghĩa hơn đối với 
mỗi người lao động, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không còn là sản 
phẩm mà quan trọng hơn là gìn giữ và thu hút được lao động có trình độ, 
góp phần gầy dựng văn hoá doanh nghiệp, tăng uy tín công ty,các chính 
sách phúc lợi ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong công tác Quản Trị 
 Nhân Lực,thông qua Bảo Hiểm Xã Hội, Bảo Hiểm Y Tế, Bảo Hiểm Thất 
Nghiệp cùng với hàng loạt các trợ cấp và dich vụ phúc lợi đem lại cho 
người lao động, cho cả doanh nghiệp và xã hội.Với ích lợi vậy tại sao các 
doanh nghiệp không xây dựng nhiều chương trình phúc lợi hơn, phải 
chăng lý do một phần chi phí quá lớn mà không phải bất kỳ tổ chức nào 
cũng đủ tiềm lực tài chính gánh vác,một lý do khác có thể là quản lý 
chương trình gặp khó khăn nếu người quản lý thiếu kinh nghiệm, trình 
độ.Đứng trứơc bức thiết đòi hỏi của thực tế em chọn đề tài " Xây dựng và 
quản lý chương trình phúc lợi là yếu tố quan trọng trong công tác Quản 
trị nhân lực hiệu quả".Cùng với mục đích cách nhìn nhận về vai trò quan 
trọng quản lý một chương trình phúc lợi tốt. 
 Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu các doanh nghiệp hoạt động trong 
khoảng 10 năm 
 Cơ sở lí luận về QTNL và Phúc lợi 
1. Một số khái niệm cơ bản 
 Khái niệm QTNL 
Có khá nhiều cách hiểu về Quản trị nhân lực, ngay cả tên gọi QTNL cũng 
còn gọi khác như: Quản lý nguồn nhân lực, Quản trị nhân sự, Quản lý tài 
nguyên nhân sự,…Song dù hiểu ở góc độ nào đi nữa thì mục đích hướng về 
con người "là tất cả các hoạt động của một tổ chức để thu hút, xây dựng, phát 
triển,sử dụng, đánh giá, bảo toàn và giữ gìn một lực lượng lao động phù hợp 
với yêu cầu công việc của tổ chức cả về mặt số lượng và chất lượng."(1).Hay 
các định nghĩa"QTTNNS là sự phối hợp một cách tổng thể các hoạy động 
hoạch định, tuyển mộ, tuyển chọn, duy trì, phát triển, động viên và tạo mọi 
điều kiện thuận lợi cho tái nguyên nhân sự thông qua tổ chức,nhằm đạt được 
mục tiêu chiến lược và định hướng viễn cảnh của tổ chức."(2),"Quản trị lao 
động là lĩnh vực theo dõi, hướng dẫn, điều chỉnh,kiểm tra sự trao đổi chất 
(năng lượng,thần kinh,bắp thịt) giữa con người với các yếu tố vật chất của tự 
nhiên (công cụ, đối tượng lao động, năng lượng…) trong quá trình tạo ra của 
cải vật chất, tinh thần, để thoả mãn nhu cầu của con người, nhằm duy trì bảo 
vệ, sử dụng và phát triển sức tiềm năng vô tận của con người."(3) 
Còn rất nhiều cách hiểu về QTNL khác nhau trên đây là một số các khái 
niệm, qua những định nghĩa trên cho ta thấy một cách tổng thể tất cả các hoạt 
động của công tác quản trị nhân lực gồm những gì, công tác muốn hiệu quả 
thì mỗi khâu thực hiện đều phải tốt, hợp lý: Thu hút được lao động giỏi sẽ tiết 
kiệm chi phí đào tạo,phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý đem lại năng 
suất lao động cao, đánh giá thực hiện công việc công bằng góp phần gìn giữ 
lao động giỏi,…Quá trình thực hiện công tác mất tác dụng nếu một khâu 
không hợp lý,cả công tác quản lý con người nhằm mục tiêu nâng cao hiệu 
suất sử dụng nguồn nhân lực đạt mục tiêu của tổ chức đề ra. 
 Vai trò QTNL 
Con người là yếu tố cấu thành nên tổ chức,vận hành hoạt động và quyết 
định sự thành bại của tổ chức,vai trò đó ngày càng trở nên quan trọng hơn khi 
khoa học công nghệ phát triển, dù có thể tạo ra nhiều người máy làm việc như 
con người đi chăng nữa nhưng về bản chất nó vẫn là những vật vô tri, nhờ sự 
tác động lịch trình con người cài vào những người máy đó mới hoạt động 
được, bên cạnh đó con người hoàn toàn có thể phát minh tạo ra những cỗ máy 
hiện đại hơn thay thế song không bao giờ có một cỗ máy nào có thể thay thế 
con người,con người tiềm ẩn tài năng, biết khai thác,sử dụng hợp lý sẽ đem 
lại hiệu quả cao nhưng không phải ai, doanh nghiệp nào làm được.Nguồn lực 
con người là một trong bốn nguồn vốn quan trọng tạo sự nên sự phát triển của 
tổ chức.quản lý nguồn lực đó sao cho đạt hiệu quả là một vấn đề khó khăn 
nhiều doanh nghiệp gặp phải, đã có nhiều doanh nghiệp phá sản mà nguyên 
nhân sâu xa là quản lý không tốt nguồn lực con người của mình. Công tác thu 
hút,gìn giữ đào tạo và phát triển là một trong nhóm chức năng quan trọng mà 
doanh nghiệp cần chú trọng.Hơn thế nữa nhu cầu con người ngày một tăng 
lên để duy trì nguồn nhân lực thì lương cao chưa hẳn là biện pháp tốt,hãy để 
cho người lao động tự nhận thấy được họ được quan tâm có cơ rất nhiều cơ 
hội để thăng tiến,ngoài tiền lương ra hiện nay chính sách phúc lợi đặc biệt là 
các loại hình dịch vụ phúc lợi được khá nhiều tổ chức áp dụng và đem lại kết 
quả tốt cũng như được người lao động trong tổ chức ấy quan tâm và ủng 
hộ.Xem xét phúc lợi có những tác dụng như thế nào đến các chính sách nhân 
lực như thế nào,ảnh hưởng đến lao động ra làm sao, trước tiên xem khái niệm 
về phúc lợi. 
 Khái niệm và ý nghĩa của phúc lợi 
 1.3.1. Khái niệm 
 Mỗi người có cách nghĩ hiểu khác nhau,có người cho rằng các chính 
sách đó phải là “trợ cấp cho công nhân viên “ (4) hay có người gọi đó là phúc 
lợi thì tựu chung lại đó là gián tiếp của thù lao,tức là không được trả bằng tiền 
mặt mà dưới dạng các hỗ trợ về cuộc sống cho công nhân, là những ích lợi từ 
: Bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm mất khả năng lao động,các dịch vụ như: mua 
cổ phần của công ty với giá ưu đãi, hỗ trợ nhà cửa, xe cộ, chăm sóc y tế… 
Người lao động có cơ hội đào tạo nâng cao tay nghề bằng dịch vụ xã hội trợ 
cấp giáo dục được quan tâm đến sức khỏe với dịch vụ bảo hiểm sức khoẻ, 
chương trình thể dục thể thao.Thực chất phúc lợi là dạng thù lao phi vật chất 
song ngày nay nó được biến tấu đi khá nhiều thường thì người lao động nhận 
được lợi ích từ các chính sách phúc lợi, họ nhận được phiếu học tiếng anh 
thay vì nhận một khoản tiền để học đấy là bản chât của phúc lợi, tuy nhiên 
hiện nay các hỗ trợ đôi khi vẫn bằng tiền mặt ví dụ như với chương trình đi 
du lịch thì người nào không đi sẽ nhận một khoản tiên khác “công ty Cổ phần 
Giầy Da Phúc Yên trả cho những người không tham gia đi du lịch cùng công 
ty hai trăm nghìn một người” điều đó có thể cho thấy sự thích nghi với thị 
trường, mỗi nước có những quy định về phúc lợi khác nhau cũng như mỗi tổ 
chức có các chương trình phúc lợi riêng biệt tạo nên văn hoá doanh nghiệp 
của tổ chức mình, hịên nay theo luật lao động bổ sung đã áp dụng chế độ trợ 
cấp thất nghiệp cho người lao động cùng với một số bổ sung khác trong phúc 
lợi bắt buộc về chế độ thai sản, điều này chứng tỏ sự quan tâm của xã hội và 
các tổ chức đến mong muốn của người lao động, với sự chú trọng đó càng 
khẳng định được ý nghĩa to lớn của phúc lợi đến bộ ba (doanh nghiệp,người 
lao động,xã hội ), để biết xem phúc lợi và các dịch vụ tác động đến ba đối 
tượng trên theo mức độ như thế nào ta lần lượt xem ảnh hưởng của phúc lợi. 
1.3.2. Sự tác động của phúc lợi đến ba đối tượng 
1.3.2.1 Tác động đến người lao động 
 Tiền lương,tiền công là khoản thù lao trả trực tiếp cho người lao động 
ảnh hưởng trực tiếp đên cuộc sống của người lao động, được họ quan tâm rất 
nhiều khi lựa chọ doanh nghiệp cho mình tuy vậy tiền lương chỉ được quan 
tâm nhiều khi mức sống tối thiểu của người lao động còn hạn chế, họ mong 
muốn có thù lao cao để trang trải cho cuộc sống của mình, đó là điều dễ 
hiểu, theo thuyết nhu cầu của Maslow nhu cầu con người ngày một tăng và 
điều đầu tiên nhu cầu tối thiểu về ăn , mặc, ở phải được đảm bảo, trong 
những năm gần đây mức sống con người đã được cải thiện từ chỗ mong 
muốn ăn no mặc đủ tiến tới ăn ngon mặc đẹp ,từ chỗ nhận thức về luật lao 
động yếu kém dần hiểu biết về pháp luật nói chung và luật lao động noí 
riêng, những năm trước đây sự yếu kém trong nhận thức pháp luật mà rất 
nhiều lao động bị người chủ sử dụng lao động lợi dụng, ví dụ như việc trích 
lương đóng bảo hiểm xã hội cho lao động trong khi hợp đồng lao động dưới 
ba tháng, lợi dụng sự kém hiểu biết đó rất nhiều lao động chịu thiệt thòi. Các 
dịch vụ, trợ cấp và bảo hiểm xã hội ảnh hưởng rất lớn đến người lao động dù 
không giống như lương liên quan trực tiếp đến năng suất lao động, không 
được coi là phương tiện trực tiếp động viên nhân viên, nó tác động gián tiếp 
lên nhân viên về mặt tinh thần,các bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bổ sung 
thêm trợ cấp thất nghiệp bắt buộc góp phần ổn định, duy trì và nâng cao đời 
sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người lao động, người lao động sẽ 
nhận được lương hưu khi hết tuổi lao động,có chế độ chăm sóc nếu gặp tai 
nan lao động hay bệnh nghề nghiệp,được hưởng toàn bộ tiền lương trong 
thời gian mang thai cũng như sau khi sinh nở…Các dịch vụ phúc lợi và trợ 
cấp thì đem lại cho người lao động cuộc sống tinh thần thật thoải mái, được 
tạo mọi điều kiện hỗ trợ làm việc, có cơ hội học tập đào tạo nâng cao tay 
nghề bằng các dịch vụ xã hội trợ cấp giáo dục, có những dịch vụ y tế khám 
sức khoẻ hằng kỳ đảm bảo thể lực tốt, với chương trình du lịch, dã ngoại tạo 
 không khí thân thiện cho người lao động, từ việc tinh thần thoải mái nhân 
viên cảm thấy giá trị bản thân mình nâng lên, thấy được sự tôn trọng từ tổ 
chức có động lực làm việc thực hiện tốt công việc đặt ra dẫn đến năng suất 
tăng lên, nhất là dịch vụ mua cổ phiếu với giá ưư đãi góp phần tạo cho nhân 
viên có trách nhiệm cao trong công việc vì nó gắn liền với lợi ích họ nhận 
được từ cổ phần,bất kỳ ai cũng vậy khi được trao quyền lực thì ắt tự nhận 
thấy trách nhiệm của bản thân, hơn nữa lợi ích cá nhân được khẳng định kéo 
theo lòng nhiệt tình cống hiến hết mình tăng cao cơ hội có nhiều phát minh 
sáng tạo, đồng thời không có lý do gì mà nhân viên lại ra đi .Đây là xu thế 
ngày nay người lao động quan tâm đến phúc lợi rất nhiều có khi họ sẵn sàng 
từ bỏ mức lương “ Một nghìn đô” để đổi lấy “ Tám trăm đô”(5) lý do gì 
khiến người lao động lại từ bỏ mức lương cao ngât ngưởng đó có rất nhiều 
lý do nhưng một trong những lý do đó là sự đối đãi tử tế của doanh nghiệp 
lam cho người lao động tin tưởng vào lựa chọn của bản thân, hơn thế nữa 
người Việt Nam rất coi trọng tình cảm con người khi được người khác quan 
tâm cảm nhận được sự thành thật từ đối phương thì lúc đó họ sẵn sàng hi 
sinh vì người đó, trong trang web " giữ chân người tài: lương cao không phải 
là tất cả" một ví dụ điển hình từ người đã khá thành đạt anh Trương Hoài 
Bão phó phòng nhân sự công ty thương mại và dịch vụ công ty Eden thuộc 
tổng công ty du lịch Sài Gòn tâm sự " trước khi "đầu quõn" về Eden đó từng 
làm cho một cụng ty của Singapore. "Tụi đặc biệt ấn tượng trong ngày làm 
việc đầu tiờn. Buổi trưa, lónh đạo của tụi mang tới cho tụi một cỏi chiếu và 
chỉ cho tụi chỗ nghỉ trưa. Điều này tuy hết sức nhỏ nhặt nhưng đó phản ỏnh 
một điều rằng lónh đạo luụn quan tõm chăm súc đến cả giấc ngủ của nhõn 
viờn".(5) 
 Thu hút và giữ chân được người tài đã hoàn toàn là những gì phúc lợi mang 
 lại cho doanh nghiệp chưa? Hãy xem xét chương trình phúc lợi ảnh hưởng 
đến doanh nghiệp như thế nào 
1.3.2.2 Phúc lợi và sự ảnh hưởng đến tổ chức 
 Một tổ chức muốn hoạt động phải có đủ bốn nguồn lực về vốn, khoa 
học công nghệ, nhà xưởng, máy móc và con người.Trong bốn yếu tố đó con 
người là nguồn lực vô cùng quan trọng góp phần vào sự thành bại của doanh 
nghiệp, vì thế mà cạnh tranh về nguồn vốn nhân lực là chiến lược tối ưu giữa 
các doanh nghiệp đã đang và sẽ diễn ra gay go khốc liệt hơn "hiện nay có 
khoảng 250 nghiệp không đủ chỗ cho người tài" biết chớp lấy thời cơ và 
nắm được nhu cầu của người lao động như thế nào sẽ đem lại thành công 
cho doanh nghiệp, nắm được nhu cầu muốn khẳng định giá trị bản thân 
mình, muốn có nhiều cơ hội thăng tiến ngày càng cao của nhân viên từ đó 
có kế hoạch thích hợp vì thế các chính sách đãi ngộ cụ thể về các dịch vụ 
phúc lợi trở nên cần thiết, phúc lợi đem lại cho tổ chức nhiều ích lợi, thông 
qua sự hài lòng thoả mãn về công việc hiệu quả công việc sẽ tăng lên thể 
hiện ở năng suất lao động cao, hạn chế tối thiểu lãng phí lao động trong quá 
trình sản xuất như thời gian lao động, phế liệu, giảm thiểu tai nạn lao 
động,với các chương trình phúc lợi tạo mối quan hệ lao động tốt giữa người 
lao động và người sử dụng lao động, tránh được chi phí bãi công, đình công 
nảy sinh.Lợi ích giữa chủ doanh nhiệp và lao động thường đối lập với nhau: 
người chủ muốn giảm được nguồn chi phí về lương,thưởng,đãi ngộ càng 
nhiều càng tốt còn ngược lại người lao động muốn có lương thưởng cao, 
chính sách đãi ngộ nhiều,mâu thuẫn lớn, dần hố sâu ngăn cách rộng lên nếu 
không có bên nào chịu giảm bớt lợi ích cho mình,phúc lợi chính là sợi dây 
nối mang lại cho cả đôi bên ích lợi, “giúp lên dây cót tinh thần cho công 
nhân viên”(6),một tác dụng lớn mà các dịch vụ phúc lợi đem lại là bảo tồn 
phát triển lực lượng lao động có trình độ cao,giảm chi phí đào tạo cũng như 
 tổn thất mà lao động mang lại nếu hằng năm có lượng lao động thuyên 
chuyển,nghỉ việc.Xây dựng chương trình phúc lợi tốt đem lại uy tín, hình 
ảnh cho doanh nghiệp nâng cao văn hoá doanh nghiệp.Bên cạnh đó phúc lợi 
là khoản chi phí trong tổng chi phí lương của tổ chức, nó có xu hướng tăng 
lên “ Tại Mỹ, Cannada, Nhật và một số nước phát triển chi phí phúc lợi 
chiếm trên 38% tổng chi phí”(7) có thể nói là con số khá cao dù theo quy 
định của nước ta hiên nay “ Trích tối đa không quá 2 tháng lương vào quỹ 
phúc lợi và quỹ phát triển” hay “trích 10% trong tổng lợi nhuận sau thuế”(8) 
với các công ty có tiềm lực hạn chế về tài chính thì đây là khó khăn lớn 
chính vì thế các công ty cần phải xây dựng mục tiêu chiến lược kinh doanh 
hợp lý từ đó xây dựng và quản lý chương trình phúc lợi hiệu quả vừa giảm 
chi phí vừa phát huy tác dụng.Không chỉ có ý nghĩa đối với doanh 
nghiệp,người lao động phúc lợi còn có ý nghĩa lớn đối với xã hội 
1.3.2.3 Ảnh hưởng đến xã hội 
 Hằng năm chính phủ đều phải trích ra lượng ngân sách nhà nước khá 
lớn vào các hoạt động trợ cấp cho nhân dân nói chung và người lao động nói 
riêng có hoàn cảnh khó khăn, với sự hình thành quỹ phúc lợi mà nhân viên 
và công ty đóng góp đã có ý nghĩa to lớn giảm bớt gánh nặng cho xã hội về 
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…nếu không có phúc 
lợi thì ngân sách nhà nước không đủ để bảo đảm hỗ trợ cho mọi người, đồng 
thời hạn chế các tệ nạn xã hội gây ra từ lao động thất nghiệp nhiều.Không 
những vậy các doanh nghiệp còn sử dụng quỹ phúc lợi vào các việc làm từ 
thiện vào các hoạt động an sinh xã hội…đóng góp vào quá trình xây dựng ổn 
định đất nước, từ việc điều tiết chi trả các loại bảo hiểm nhà nước thể hiện 
vai trò điều tiết xã hội, quan tâm đến lợi ích cho người lao động nhiều hơn. 
II. Mối quan hệ giữa xây dựng ,quản lý chương trình phúc 
lợi và công tác QTNL hiệu quả 
 2.1. Mục tiêu xây dựng chương trình phúc lợi 
 Cái đích doanh nghiệp hướng tới đối tượng là ai? mục đích đem lại 
cái gì? rõ ràng xây dựng chương trình phúc lợi nằm trong xây dựng mục tiêu 
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, tuỳ từng giai đoạn mà có các hoạt 
động dịch vụ thích hợp nhưng trong đó đảm bảo những mục tiêu cơ bản, 
từng bước duy trì nâng cao đời sống vật chất cho người lao động của tổ chức 
mình, muốn cho nhân viên mình tâm lý ổn định yên tâm công tác thì chú ý 
đến cuộc sống của người lao động, bằng các trợ cấp hỗ trợ cho công nhân 
viên khi họ gặp khó khăn nhất là về nhà cửa, xe cộ, các dịch vụ chăm sóc 
cho con cái họ, chăm sóc sức khoẻ để họ có đầy đủ điều kiện phát triển khả 
năng của mình, để nhân viên nghe làm theo điều doanh nghiệp đề ra phảI tạo 
được niềm tin từ phía lao động, không phảI lúc nào công ty hoạt động kinh 
doanh cũng thuận lợi cho nên cơ bản đầu tiên hãy đảm bảo mức sống vật 
chất tối thiểu. Có những doanh nghiệp mục tiêu nhằm mở rộng thị trường 
hay chỉ co hẹp thị trường kinh doanh của mình lại lúc đó quan trọng đối với 
tổ chức là đầu tư về công nghệ kỹ thuật tạo phong phú về sản phẩm, các 
chương trình trợ cấp sẽ khác khi doanh nghiệp đang cần cạnh tranh thu hút 
lao động cần nhiều chính sách phúc lợi hơn. Có thể nói chiến lược kinh 
doanh quyết định đến giỏ trợ cấp của doanh nghiệp. 
 Đảm bảo mức sống cho công nhân viên chỉ nhằm mục đích sâu xa tác 
động gián tiếp duy trì và nâng cao năng suất lao động, đôI khi lương hay 
thưởng chưa đủ kích thích tăng năng suất lao động song với các dịch vụ 
phúc lợi tạo ra đem lại năng suất lao động cao, với chương trình dã ngoại, tổ 
chức các hoạt động thể dục thể thao tạo cho người lao động có nhiếu sáng 
kiến cảI tiến kỹ thuật giúp tăng năng suất, dù tổ chức đưa ra các chính sách 
khuyến khích về lương hay một số chính sách khác thì cũng nhằm đạt được 
hiệu suất sử dụng lao động hiệu quả, hiệu quả cả không chỉ ở tăng năng suất 
 mà còn giảm chi phí các loại, sản xuất được nhiều sản phẩm nhưng thời gian 
hao phí quá nhiều,quá nhiều phế liệu sinh ra thì đó không được coi là tăng 
năng suất lao động, sử dụng hiệu quả thời gian lao động cũng chính là nâng 
cao năng suất lao động. 
 Không chỉ đặt ra mục tiêu nâng cao năng suất lao động, duy trì mức 
sống vật chất và tinh thần cho người lao động các doanh nghiệp kỳ vọng ở 
chương trình phúc lợi đem lại cho người lao động thấy được phong cách 
lãnh đạo của người chủ, tạo mối quan hệ lao động trong tổ chức tốt đẹp hơn 
góp phần xây dựng một nền văn hóa lành mạnh phát triển.Với các doanh 
nghiệp hiện nay dù là lớn hay nhỏ đều tiến tới thành lập các tổ chức công 
đoàn với tư cách đại diện cho quyền lợi của người lao động, xây dựng 
chương trình phúc lợi để tạo cho công nhân viên thấy được tiếng nói của 
mình có trọng lượng, đòi hỏi quyền lợi thông qua công đoàn với bản thỏa 
ước lao động khẳng định doanh nghiệp rất quan tâm đến người lao động, 
tâm lý chung của bất kỳ lao động nào trong tổ chức đều muốn có một tổ 
chức thay mặt họ nói lên nguyện vọng của bản thân, nhiều khi một người lao 
động muốn đòi hỏi quyền lợi dễ bị chèn ép hơn là có tập thể lao động cùng 
đứng lên, họ luôn tin tưởng vào công đoàn có thể ví công đoàn giống như 
người hòa giảI hữu ích cho đôI bên lao động khi có những tranh chấp về 
quyền lợi, các công ty rất sợ đình, bãi công diễn ra vì ảnh hưởng rất lớn đến 
sản xuất mà còn tác động không tốt đến hình ảnh công ty trên thị trường. 
Chính vì thế đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của đại diện người lao động tạo bầu 
không khí hoà đồng góp phần chứng minh được vai trò đi