Đề thi Luật Thương mại 2 - Pháp luật thương mại hàng hóa và dịch vụ

Đề thi Luật Thương mại 2 Pháp luật TM hàng hóa & dịch vụ Câu 1: So sánh hoạt động ủy thác mua bán hàng hoá với hoạt động đại lý thương mại. Câu 2: Nhận định đúng sai, giải thích? a) Mọi hoạt động vận chuyển hàng hoá của thương nhân cho khách hàng để hưởng thù lao đều gọi là hoạt động dịch vụ Logictics b) Trong mọi trường hợp, nếu ko có thoả thuận chế tài phạt vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại thì ko được đòi phạt khi có vi phạm hợp đồng đó. c) Bên đại lý ko được tự mình quyết định giá bán hàng hoá mà mình làm đại lý. d) Chỉ có thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại mới được quyền tổ chức hội chợ, triển lãm thương mai. Câu 3: Công ty A gửi công văn đề nghị giao kết hợp đồng với công ty B vào ngày 12/7/2008, theo đó công ty A đặt mua 100 tấn cà phê với giá 30 triệu/ tấn và thanh toán sau khi công ty A nhận hàng. Công ty B gửi công văn đề ngày 20/07/08 trả lời công ty A là công ty B đồng ý bán số hàng nói trên cho công ty A, nhưng yêu cầu công ty A thanh toán thành 2 đợt:

pdf13 trang | Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề thi Luật Thương mại 2 - Pháp luật thương mại hàng hóa và dịch vụ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề thi Luật Thương mại 2 Pháp luật TM hàng hóa & dịch vụ Câu 1: So sánh hoạt động ủy thác mua bán hàng hoá với hoạt động đại lý thương mại. Câu 2: Nhận định đúng sai, giải thích? a) Mọi hoạt động vận chuyển hàng hoá của thương nhân cho khách hàng để hưởng thù lao đều gọi là hoạt động dịch vụ Logictics b) Trong mọi trường hợp, nếu ko có thoả thuận chế tài phạt vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại thì ko được đòi phạt khi có vi phạm hợp đồng đó. c) Bên đại lý ko được tự mình quyết định giá bán hàng hoá mà mình làm đại lý. d) Chỉ có thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại mới được quyền tổ chức hội chợ, triển lãm thương mai. Câu 3: Công ty A gửi công văn đề nghị giao kết hợp đồng với công ty B vào ngày 12/7/2008, theo đó công ty A đặt mua 100 tấn cà phê với giá 30 triệu/ tấn và thanh toán sau khi công ty A nhận hàng. Công ty B gửi công văn đề ngày 20/07/08 trả lời công ty A là công ty B đồng ý bán số hàng nói trên cho công ty A, nhưng yêu cầu công ty A thanh toán thành 2 đợt: - Đợt 1: Khi hợp đồng được xác lâp. - Đợt 2: Tại thời điểm cty B giao hàng cho người vận chuyển do cty A thuê. Ngày 28/07/08 cty A trả lời chấp nhận yêu cầu trên của cty B. Cùng ngày cty B nhận được trả lời chấp nhận của cty A bẳng Fax. hỏi: 1. Hãy xác định thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hoá giữa cty A và cty B? 2. Ai phải chịu trách nhiệm khi hàng hoá của đợt 2 bị hư hỏng do người vận chuyển hàng hoá gặp bão lớn mà họ ko thể chống đỡ được và đã thông báo cho cty A. TÌNH HUỐNG Câu 1: Tình huống Ngày 1/12/2007 công ty TNHH thương mại Thiên Lộc ký hợp đồng mua của công ty TNHH sản xuất chế biến và kinh doanh thực phẩm Nhân Hoà 150 tấn gạo, 5% tấm với giá 6.000.000đồng/ tấn . Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm ký kết và công ty Nhân Hoà sẽ giao hàng tại kho của công ty Thiên Lộc làm 3 đợt trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ký hợp động Công ty Thiên Lộc sẽ thanh toán bằng tiền mặt, ngay sau khi nhận hàng của mỗi đợt. Vào ngày 5/12/2007 công ty Nhân Hoà giao đợt hàng đầu tiên 50 tấn gao. Sau khi nhận hàng công ty Thiên Lộc không chấp nhận thanh toán cho công ty Nhân Hoà theo giá đã thoả thuận trong hợp đồng, mà chỉ đồng ý thanh toán với giá 5.000.000đồng/tấn với lý do là gạo có độ tấm nhiều hơn 5%. Công ty Nhân Hoà không đồng ý với quyết định trên và không nhận thanh toán. Ngày 7/12/2007 công ty tiếp tục giao 50 tấn gạo của đợt 2, mặc dù vẫn còn đang tranh chấp về thanh toán tiền hàng của đợt 1. Tuy nhiên, công ty Thiên Lộc từ chối không nhận 50 tấn gạo của đợt 2 với lý do công ty Nhân Hoà giao hàng không báo trước, nên công ty không có kho chứa hạng Ngay đêm đó mưa rất tọ Do không lường trước được tình huống trên, nên công ty Nhân Hoà không có phương tiện che chắn, hậu quả 50 tấn gạo bị ướt và hư hỏng hoàn toàn. Trước các sự kiện trên, công ty Nhân Hoà cho rằng công ty Thiên Lộc đã cố ý lừa dối mình, nên không tiếp tục giao hàng đợt 3. Vào ngày 15/12/2007 công ty Nhân Hoà gửi công văn cho công ty Thiên Lộc với các yêu cầu đối với công ty Thiên Lộc như sau: - Công ty Thiên Lộc phải thanh toán 50 tấn gạo của đợt 1 theo giá đã thoả thuận trong hợp đồng. - Công ty Thiên Lộc phải bồi thường thiệt hại đối với lô hàng 50 tấn của đợt 2 theo giá trị hợp đồng đã ký kết, do lỗi không nhận hàng theo thoả thuận trong hợp đồng, dẫn đến gạo bị mưa ướt và hư hỏng hoàn toàn. Ngày 30/12/2007 công ty Thiên Lộc có công văn trả lời như sau: - Bác bỏ yêu cầu của công ty Nhân Hoà và giữ nguyên quan điểm của mình, chỉ chấp nhận thanh toán 50 tấn gạo của đợt đầu với giá 5.000.000đồng /tấn. - Yêu cầu công ty Nhân Hoà phải chịu phạt 8% giá trị hợp đồng và bồi thường thiệt hại 300.000.000 đồng vì vi phạm hợp đồng. 1/ Hãy cho nhận xét về quan hệ hợp đồng và diễn biến thực hiện hợp đồng nêu trên? 2/ Bằng quy định của pháp luật thương mại hãy cho biết yêu cầu của các bên đúng hay sai, đồng thời giải thích rõ vì sao? 3/ Hãy đưa ra cách giải quyết cụ thể phù hợp quy định pháp luật tình tiết quan hệ hợp đồng trên? CÂU 2: Các nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích tại sao? a/ Mọi rủi ro đối với hàng hoá sẽ thuộc về bên bán nếu bên mua chưa nhận được hàng hoá đó. b/ Hợp đồng mua hàng hoá sẽ không có hiệu lực, nếu các bên trong quan hệ mua bán đó không có chức năng kinh doanh đối với hàng hoá là đối tượng của hợp đồng. c/ Mua bán hàng hoá giữa các thương nhân Việt Nam với nhau là mua bán hàng hoá trong nước. d/ Hợp đồng trong hoạt động thương mại, có hiệu lực từ thời điểm được giao kết giữa các bên. e/ Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, điều khoản về chất lượng là điều khoản bắt buộc trong hợp đồng. f/ Mọi thiệt hại phát sinh trong hợp đồng mua bán hàng hoá, sau thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá giữa bên bán với bên mua, được chuyển giao cho bên mua. g/ Tài sản được mua bán, chuyển nhượng trên thị trường là hàng hoá. h/ Hợp đồng thương mại được xác lập trái quy định pháp luật sẽ bị vô hiệu tại thời điểm xác lâp. Công ty Bông Vải A thuê công ty vận tải B vận chuyển 100.000m vải từ kho cảng Cát Lái (tp.hcm) về Bình Dương. Theo thoả thuận: thời gian nhận hàng vào hồi 10h30 phút ngày 24/12/2009, ngoài ra hai bên thoả thuận với nhau bên nào vi phạm sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. nhưng đến 16h30 ngày 24/12/2009 công ty B mới đến kho cảng( không có lý do khách quan để làm công ty B đến muộn); tuy nhiên vào 14h kho vải bị cháy 80.000m vải. Công ty A khởi kiện công ty B đòi bồi thường số vải cháy. Yêu cầu: 1. Hợp đồng trên là hợp đồng thương mại hay hợp đồng dân sự ? 2. Chủ thể của hợp đồng là những đối tượng nào? 3. Công ty B có phải bồi thường cho công ty A không? 4. Sự việc trên giải quyết như thế nào? Bài này mình làm như sau: 1. Hợp đồng trên là hợp đồng thương mại( hợp đồng cung ứng dịch vụ) 2. Chủ thể của hợp đồng trên gồm bên cung ứng dịch vụ(cty vận tải B) và bên sử dụng dịch vụ(cty Bông Vải A) 3. Cty B phải bồi thường cho cty A .vì Theo khoảng 1 Điều 61, công ty B đã vi phạm hợp đồng 4.Giải quyết theo khoảng 3 điều 292, Cty A buộc bồi thường thiệt hại. Để cho các bạn tiện theo dõi, kèm theo từng nội dung của tình huống chúng tôi sẽ tiến hành giải quyết, phân tích và đánh giá trực tiếp các vấn đề. Tình huống: 2.1. Hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá số 15/VK ngày 15/11/2007 giữa công ty TNHH A (bên A – bên giao đại lý) với DNTN B (bên B – bên đại lý), theo đó có một số điều khoản đáng lưu ý sau: (nhận xét về các thoả thuận trong hợp đồng đại lí ký kết giữa CTTNHH A và DNTN B). • Bên B làm đại lí không độc quyền cho bên A, được nhân danh chính mình để giao kết các hợp đồng mua bán hàng hoá; bên B chỉ bán các sản phẩm mà bên A cung cấp, không bán các sản phẩm cạnh tranh hoặc bên A cho là cạnh tranh nếu không được bên A đồng ý bằng văn bản. Theo thoả thuận này thì bên B không phải là đại lí độc quyền của A. Điều này có nghĩa là trên phạm vi địa bàn kinh doanh của B, A hoàn toàn có quyền ký kết các hợp đồng đại lí mua bán hàng hoá với các đại lí khác. Hệ quả của việc này là B rất có khả năng sẽ có các đối thủ cạnh tranh kinh doanh các mặt hàng tương tự do bên A cung cấp và thị trường khách hàng của B sẽ bị giảm đi một phần, khoản thù lao thu được sẽ bớt đi. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là hai bên thoả thuận bên B có quyền nhân danh mình để giao kết các hợp đồng mua bán hàng hoá nhưng quyền này lại bị hạn chế về đối tượng giao kết. Hợp đồng quy định, bên B chỉ bán các sản phẩm mà bên A cung cấp, không bán các sản phẩm cạnh tranh hoặc bên A cho là cạnh tranh nếu không được bên A đồng ý bằng văn bản. Đây là một thoả thuận gây bất lợi cho B. Thường các đại lí là nơi có các loại mặt hàng của nhiều hãng khác nhau để cho người tiêu dùng có thể lựa chọn và cũng đáp ứng được nhiều đối tượng khác nhau, nếu không thì đại lí đó cũng phải có các mặt hàng mang tính đặc trưng mà các đại lí khác không có được để tạo nguồn thu. Trong khi ở đây, B không phải là đại lí độc quyền lại bị hạn chế về các sản phẩm. Thêm nữa, trong hợp đồng lại đưa ra một điểm là bên B không được bán các sản phẩm mà bên A cho là cạnh tranh nếu không được bên A đồng ý bằng văn bản. Đây là điều khoản mập mờ, không rõ ràng. Bởi, hiểu như thế nào là sản phẩm cạnh tranh? Quan điểm của A về mặt hàng cạnh tranh là như thế nào? Ở đây, B dường như mất đi tính tự quyết đối với hoạt động kinh doanh của mình. Với quy đinh như vậy thì bên B để đảm bảo an toàn, không bị coi là vi phạm hợp đông thì trước khi có ý định bán một sản phẩm của đối tác nào đó thì sẽ hỏi ý kiến của bên A, nếu được bên A đồng ý bằng văn bản thì mới ký kết với các đối tác khác để bán các sản phẩm đó. Như vậy, với điều khoản trên B dường như bị phụ thuộc khá nhiều vào A và luôn giữ thế bị động trong quan hệ này và cả trong hoạt động kinh doanh của B. • Hàng hoá được giao tại kho của bên B; quyền sở hữu hàng hoá được chuyển giao cho bên B kể từ thời điểm giao hàng. Điều khoản này về hình thức là rõ ràng và có lợi hơn cho B. Cụ thể là hàng hoá được bên A vận chuyển đến tại kho của bên B. Tuy nhiên vấn đề cần bàn ở đây là hợp đồng quy định quyền sở hữu hàng hoá được chuyển giao cho bên B kể từ thời điểm giao hàng. Hợp đồng số 15/VK là hợp đồng đại lí bán hàng, bản chất của hợp đồng này là bên đại lí bán hàng cho bên giao đại lí để hưởng thù lao. Hơn nữa theo điều 170 Luật thương mại thì bên giao đại lí là chủ sở hữu đối với hàng hoá chứ không phải là bên đại lí – đây là quy đinh mang tính bắt buộc, nghĩa là các bên trong hợp đồng đại lí không được thoả thuận khác đi. Quy định này là hoàn toàn hợp lí. Bởi, nếu như quyền sở hữu hàng hoá chuyển giao hoàn toàn cho bên đại lí thì đây lại không còn là hợp dồng đại lí nữa mà là hợp đồng mua bán hàng hoá. Như vậy, trong trường hợp này, điều khoản về chuyển quyền sở hữu là bất hợp pháp, khi có tranh chấp và được giải quyết tại cơ quan tài phán thì điều khoản này sẽ bị tuyên vô hiệu hoặc hợp đồng sẽ bị vô hiệu toàn bộ. Như vậy, điểm cần lưu ý đối với hợp đồng đại lí là các bên phải xác định chính xác một điểm rằng quyền sở hữu hàng hoá trước khi chuyển giao hàng hoá cho khách hàng thì luôn thuộc về bên giao đại lí. Vì vậy khi thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng liên quan đến vấn đề này thì các bên không được thoả thuận khác đi, nếu không hợp đồng sẽ bị vô hiệu và thiệt hại sẽ xảy ra đối với cả hai bên. • Bên B bán các sản phẩm theo giá mà bên A ấn định. Luật thương mại hoàn toàn cho phép bên giao đại lí có quyền ấn định giá bán của bên đại lí và ở đây thì bên A cũng ấn định giá bán cho bên b, theo đó bên B sẽ phải bán hàng theo giá mà bên A ấn định. Như vậy, bên B sẽ được hưởng thù lao theo phần trăm giá trị hàng hoá bán được đã được bên A định trước tỷ lệ phần trăm. Quy định này cho thấy bên B phụ thuộc tương đối nhiều vào bên A và dường như là rất bất lợi. Bởi, nếu xét sự tương quan với các điều khoản ở trên thì bên B đã phải chịu sự giới hạn về các mặt hàng lại không được quyền tự quyết định giá bán. Đặt ra tình huống bên B kinh doanh một mặt hàng chủ yếu như: bánh kẹo mà với các điều khoản này thì B sẽ khó lòng cạnh tranh với các đại lí khác. Bởi, khi các đại lí có quyền ấn định giá bán cho khách hàng thì họ có thể chủ động tăng giảm giá để vừa có thể thu lợi cho mình lại vừa có thể cạnh tranh với các đại lí khác. Trong khi ở đây, B hoàn toàn không có quyền năng này, do đó khả năng cạnh tranh của B sẽ bị hạn chế đi. • Bên B sẽ thanh toán tiền hàng theo từng đợt giao hàng sau 15 ngày kể từ ngày giao hàng. Theo quy đinh tại điều 176 Luật thương mại thì trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì tiền hàng sẽ được thanh toán theo từng đợt sau khi bên đại lí hoàn thành việc bán một khối lượng hàng hoá nhất định. Điều này có nghĩa là khi bên đại lí bán hết một khối lượng hàng hoá nhất định thì bên đại lí sẽ thanh toán tiền hàng cho bên giao đại lí và nhập lượng hàng mới nếu hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Quy đinh này là hợp lí vì bản chất của đại lí bán là bán hộ và hưởng thù lao từ việc bán đó. Vì vậy chỉ khi hàng hoá bán được một lượng đáng kể đảm bảo có khả năng hàng sẽ được bán hết thì bên đại lí mới có thể giao tiền và hàng cho bên giao đại lí và hưởng thù lao đại lí. Tuy nhiên hợp đồng đã thoả thuận rõ thời hạn thanh toán tiền hàng thì các bên sẽ thực hiện theo đúng thoả thuận. Mặc dù vậy, nó cũng có một số điểm chưa rõ ràng, cụ thể: việc thanh toán sẽ được thực hiện theo phương thức nào, trả trực tiếp hay trả qua tài khoản? Trả bằng tiền Việt hay ngoại tệ chuyển đổi? Trả một lần hay nhiều lần? Nếu không thoả thuận rõ ràng thì khi thực hiện sẽ rất dễ phát sinh tranh chấp. • Hợp đồng có thời hạn 2 năm kể từ ngày ký. Pháp luật cho phép các bên được thoả thuận về thời hạn hợp đồng và không hạn chế quyền này. Vì vậy hai bên hoàn toàn có thể thoả thuận về thời hạn chấm dứt hợp đồng. Ở đây các bên đã thoả thuận thời hạn chấm dứt là hai năm kể từ ngày ký. Thoả thuận này khá rõ ràng. Tuy nhiên đặt ra vấn đề là khi hợp đồng chấm dứt thì việc thanh lí hợp đồng sẽ như thế nào? Trường hợp hợp đồng chấm dứt thì hàng hoá sẽ xử lý ra sao, trả lại cho bên giao đại lí hay bên đại lí vẫn bán tiếp? Trong trường hợp có các sự kiện khác xảy ra thì hợp đồng có đương nhiên chấm dứt không? Vần đề nữa là các đại lí thường hoạt động lâu dài và uy tín thương hiệu của họ được xây dựng dựa trên hàng hoá mà họ bán và quan hệ đại lí thường mang tính chất ổn định, lâu dài và các điều khoản về thời hạn hợp đồng thường là không xác định hoặc dựa trên các yếu tố mang tính khách quan hơn là quy định một thời gian nhất định. Điều này sẽ gây khó dễ cho cả phía bên giao đại lí và bên đại lí. b. Ngày 1/3/2008, A giao đợt hàng mới cho B. Bên B mới bán được 1/3 lô hàng thì ngày 11/3/2008 do sự cố chập điện tại địa điểm có kho hàng của B (sự cố này được xác định là sự kiện bất khả kháng) nên kho chứa hàng của B bị cháy làm toàn bộ số hàng hoá trong kho bị hư hỏng. Vì vậy, B không thanh toán được tiền hàng theo thoả thuận trong hợp đồng và cho rằng mình chỉ là đại lí nên không có nghĩa vụ chịu rủi ro đối với số hàng đã bị cháy. DNTN B có phải thanh toán tiền hàng cho CTTNHH A không? Ai sẽ là người chịu rủi ro đối với số hàng hoá bị cháy vào ngày 11/3/2008? Nếu như xét tình huống này trong sự tương quan giữa các điều khoản trong hợp đồng thì khi hàng hoá đã vận chuyển đến kho của B thì quyền sơ hữu hàng hoá đã được chuyển giao cho B không phụ thuộc vào việc bên B đã thanh toán hay chưa. Theo lý luận thì rủi ro sẽ thuộc về chủ sở hữu hàng hoá trừ trường hợp rủi ro đó là do lỗi của bên kia. Như vậy, bên B sẽ phải chịu rủi ro về hàng hoá đối với trường hợp này mặc dù chưa đến hạn thanh toán tiền hàng của bên B. Nếu xét trong các hợp đồng đại lí bình thường mà hai bên không thoả thuận các điều khoản về trách nhiệm của hai bên khi có rủi ro xảy ra thì nếu rủi ro xảy ra là do sự kiên bất khả kháng thì chủ sở hữu hàng hoá phải chịu trách nhiệm, cụ thể là bên giao đại lí như phân tích ở trên. Nhưng với hợp đồng này thì lại khác, đây là hợp đồng có điều khoản trái pháp luật và điều khoản trái pháp luật này lại có liên quan đến trách nhiệm của các bên khi có rủi ro xảy ra. Đó là điều khoản về quyền sở hữu hàng hoá. Như vậy, có thể đưa ra cách giải quyết trong tình huống này như sau: Nếu bên B vẫn chấp nhận hợp đồng và thực hiện không có ý kiến gì thì DNTN B sẽ vẫn phải thanh toán tiền hàng cho CTTNHH A đồng thời phải chịu trách nhiệm về rủi ro đó. Nếu hai bên có tranh chấp và đưa ra cơ quan tài phán giải quyết thì hợp đồng sẽ bị tuyên vô hiệu một phần hoặc toàn bộ. Và dù hợp đồng bị tuyên vô hiệu theo hình thức nào thì các bên cũng phải khắc phục hậu quả của việc hợp đồng bị tuyên vô hiệu là quyền sở hữu sẽ phải chuyển giao cho A chứ không được chuyển sang cho B theo như quy đinh tại điều 170 Luật thương mại. Và như vậy, DNTN B sẽ không phải thanh toán tiền hàng cho CTTNHH A và không phải chịu trách nhiệm về rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng mà không phải là lỗi của B. 2.2. Giả sử, anh An và ba người bạn của anh An mua bánh trung thu ở của hàng đại lí do bên B bán và khi ăn bánh họ đã bị ngộ độc phải nằm viện 3 ngày do chất lượng bánh trung thu không đảm bảo. B đã ứng trước tiền viện phí, thuốc mencho họ; sau đó, B yêu cầu A phải thanh toán lại số tiền mà B đã ứng trước. A lập luận rằng mình cũng chỉ là đại lí cho DNTN Long Phụng chuyên sản xuất các loại bánh kẹo nên DNTN Long Phụng phải là người chịu trách nhiệm về chất lượng bánh trung thu và bồi thường thiệt hại cho anh An và các bạn của anh. Theo anh, chị ai là người phải bồi thường thiệt hại cho các khách hàng nói trên? Chất lượng hàng hoá là một trong những tiêu chí quan trọng để làm nên thương hiệu của nhà sản xuất và cả của đại lí, việc một hàng hoá bị coi là có chất lượng không tốt sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của họ sau này. Để một hàng hoá, đặc biệt là các hàng hoá là thực phẩm đến tay khách hàng đảm bảo chất lượng tốt không chỉ phụ thuộc vào yếu tố sản xuất mà còn phụ thuộc cả vào yếu tố vận chuyển, bảo quản. Có thể khi sản xuất ra, hàng hoá đó đảm bảo chất lượng tốt nhưng khi bảo quản lại không hợp lý thì cũng làm cho chất lượng hàng hoá bị giảm sút và nhiều khi là có hại. Do đó khi khách hàng phát hiện ra hàng hoá đó không đảm bảo chất lượng không thể đổ lỗi hoàn toàn cho khâu sản xuất và khi đó thì trách nhiệm về chất lượng của hàng hoá cũng sẽ không phải luôn do bên sản xuất chịu toàn bộ. Theo quy định tại khoản 2 điều 173 Luật thương mại, trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì bên giao đại lí có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá của đại lí bán hàng. Tuy nhiên, khoản 3 điều 175 cũng quy định, trong trường hợp hai bên không có thoả thuận khác thì bên đại lý có nghĩa vụ bảo quản hàng hoá sau khi nhận và phải liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá trong trường hợp có lỗi do mình gây ra. Như vậy ở đây đặt ra vấn đề lỗi, cụ thể: trong trường hợp chất lượng hàng hoá không đảm bảo một phần là do lỗi của bên đại lí như bảo quản không đúng theo chỉ dẫn của bên đại lí là một trong những nguyên nhân đẫn đến hàng hoá không đảm bảo chất lượng thì bên đại lí cũng phải liên đới chịu trách nhiệm với bên giao đại lí. Còn trong trường hợp, chất lượng hàng hoá không đảm bảo không phải do lỗi của bên đại lí thì bên giao đại lí sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Tuy nhiên, trong tình huống này, bên giao đại lí lại chỉ là một đại lí cho một bên giao đại lí khác. Trong khi Luật chỉ quy định mối quan hệ giữa một hợp đồng đại lí mà không quy định trường hợp có hợp đồng đại lí tiếp nối. Như vậy thì trong tình huống này trách nhiệm giữa các bên sẽ giải quyết như thế nào? Trong tình huống này, mặc dù luật không có quy đinh cụ thể nhưng chúng ta cũng có thể áp dụng một số quy đinh khác để giải quyết. Theo điều 14 Luật thương mại quy định về nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng thì thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về chất lượng của hàng hoá mà mình kinh doanh. Như vậy, mặc dù DNTN Long Phụng giao hàng cho bên A làm đại lí bán, sau đó bên A lại giao hàng cho bên B đê làm đại lí bán cho mình và sự việc liên quan đến chất lượng hàng hoá không đảm bảo lại xảy ra ở của hàng đại lí cảu bên B thì trong trường hợp này nếu chúng minh được rằng chất lượng của hàng hoá không đảm bảo là do một phần hoặc toàn bộ lỗi thuộc về khâu sản xuất thì DNTN Long Phụng cũng vẫn phải chịu trách nhiệm. Đối chiếu trường hợp này với lập luận trên đây thì tình huống này sẽ xảy ra các trường hợp tương ứng với các cách giải quyết cụ thể sau: Trường hợp cả bên A và bên B chứng minh đều không có lỗi trong việc làm cho chất lượng hàng hoá không đảm bảo thì DNTN Long Phụng sẽ phải chịu toàn bộ trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh An và các bạn của anh. Trong trường hợp bên B hoặc A hoặc
Tài liệu liên quan