Tóm tắt
Tháng 7 năm 2000, Hệ quy chiếu và hệ tọa độ quốc gia VN 2000 được chính
thức đưa vào sử dụng, thay thế cho hệ quy chiếu cũ HN 72. Tiếp theo đó, năm 2007,
Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố tham số tính chuyển giữa VN 2000 với hệ tọa
độ quốc tế WGS 84. Tuy nhiên, hiện nay hệ quy chiếu WGS 84 đã được nâng cấp lên
phiên bản mới nên cần thiết phải cập nhật lại bộ tham số này. Trên cơ sở phân tích
các yêu cầu của bài toán tính chuyển tọa độ giữa hai hệ, bài báo đề xuất lựa chọn
hệ quy chiếu trái đất quốc tế ITRS với các triển khai là khung quy chiếu trái đất
quốc tế ITRF làm yếu tố trung gian trong bài toán liên kết giữa VN 2000 và WGS
84. Bài toán kết nối giữa VN 2000 và WGS 84 sẽ được giải gián tiếp thông qua mối
liên hệ giữa khung ITRF với VN 2000 và WGS 84.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 788 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề xuất giải pháp xác định bộ tham số mới để tính chuyển tọa độ giữa hệ quy chiếu VN 2000 và WGS 84, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 2018 71
ĐỀ XUẤT GIẢI P HÁP XÁC ĐỊNH BỘ THAM SỐ MỚI
ĐỂ TÍNH CHUYỂN TỌA ĐỘ GIỮA HỆ QUY CHIẾU
VN 2000 VÀ WGS 84
Phạm Thị Hoa, Trịnh Thị Hoài Thu
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
Tóm tắt
Tháng 7 năm 2000, Hệ quy chiếu và hệ tọa độ quốc gia VN 2000 được chính
thức đưa vào sử dụng, thay thế cho hệ quy chiếu cũ HN 72. Tiếp theo đó, năm 2007,
Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố tham số tính chuyển giữa VN 2000 với hệ tọa
độ quốc tế WGS 84. Tuy nhiên, hiện nay hệ quy chiếu WGS 84 đã được nâng cấp lên
phiên bản mới nên cần thiết phải cập nhật lại bộ tham số này. Trên cơ sở phân tích
các yêu cầu của bài toán tính chuyển tọa độ giữa hai hệ, bài báo đề xuất lựa chọn
hệ quy chiếu trái đất quốc tế ITRS với các triển khai là khung quy chiếu trái đất
quốc tế ITRF làm yếu tố trung gian trong bài toán liên kết giữa VN 2000 và WGS
84. Bài toán kết nối giữa VN 2000 và WGS 84 sẽ được giải gián tiếp thông qua mối
liên hệ giữa khung ITRF với VN 2000 và WGS 84.
Từ khóa: VN 2000; WGS 84; ITRS; ITRF; Tính chuyển tọa độ
Abstract
The recommendation solution for determining new coordinate transformation
parameters between Vietnam geodetic system (VN2000) and world geodetic
system 84 (WGS84)
In July 2000, Hanoi 72 Vietnamese Geodetic Datum was replaced by the
Vietnamese Geodetic Datum, namely as VN 2000 as an offi cial geodetic background
system in Vietnam. Ministry of Natural Resources and Environment of the Socialist
Republic of Vietnam has reported the transformation parameters between VN 2000
and WGS 84, which was adopted across Vietnam on January 1, 2007. However,
there is a need to estimate a new prameter set because WGS 84 has been updated.
In this paper, International Terrestrial Reference Fame (ITRF) is proposed for
calculating the transformation parameters to convert coodinates between VN 2000
and WGS 84. The link between the two systems is implemented indirectly via the
relationship between ITRF and each system.
Keywords: VN 2000; WGS 84; ITRS; ITRF; The transformation parameters
1. Giới thiệu
Tháng 7 năm 2000, chính phủ Việt
Nam đã quyết định sử dụng hệ quy
chiếu và hệ tọa độ VN 2000 thay thế
cho hệ quy chiếu HN 72 trước đó [2].
VN 2000 là hệ quy chiếu tĩnh do đó tọa
độ không thay đổi theo thời gian. Ngược
lại, hệ quy chiếu WGS 84 được thiết lập
năm 1984 có tính động [15] nên tọa độ
của cùng một điểm xét là hàm số của
thời gian. Khái niệm về hệ quy chiếu
tĩnh như VN 2000 đã được sử dụng phổ
biến ở Việt Nam cũng như nhiều quốc
gia khác nhau bởi ưu điểm dễ dàng sử
dụng và duy trì hơn hệ quy chiếu động.
Tuy nhiên hệ quy chiếu động có ưu
điểm vượt trội là cho phép theo dõi và
mô hình hóa sự thay đổi vị trí điểm xét
theo thời gian.
Về nguyên tắc toán học, để đảm
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 201872
bảo yêu cầu độ chính xác cao, bộ tham
số tính chuyển giữa hệ quy chiếu tĩnh và
hệ quy chiếu động không được xem là
hằng số. Do đó, đối với việc tính chuyển
tọa độ giữa hai hệ VN 2000 và WGS 84,
mỗi một thời điểm cần có một bộ tham
số tính chuyển tương ứng.
Ngày 01 tháng 7 năm 2007, Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã công bố bộ
tham số tính chuyển giữa hệ VN 2000
và WGS 84 như sau [1]:
- Tham số dịch chuyển gốc tọa độ:
X = -191,90441429 m;
Y= -39,30318279 m;
Z= -111,45032835 m.
- Góc xoay trục tọa độ:
= -0,00928836”;
= 0,01975479”;
=-0,00427372”.
- Hệ số tỷ lệ chiều dài:
k = 1,000000252906278.
Bộ tham số này đã được sử dụng
phổ biến từ đó cho đến nay. Trong mười
năm qua, hệ quy chiếu WGS 84 đã được
nâng cấp lên phiên bản mới [18]. Do đó,
yêu cầu tính lại các tham số tính chuyển
giữa WGS 84 với VN 2000 là hết sức
cần thiết.
Thông thường, các tham số tính
chuyển giữa hai hệ quy chiếu được xác
định dựa vào các điểm có tọa độ chính
xác cao trong hai hệ trên cơ sở nguyên
lý số bình phương nhỏ nhất. Theo đó,
để xác định các tham số tính chuyển tọa
độ giữa VN 2000 và WGS 84, cần thiết
phải có các điểm có tọa độ chính xác cao
trong cả hai hệ. Tại Việt Nam, tọa độ với
độ chính xác cao trong hệ VN 2000 có
thể dễ dàng xác định được. Ngược lại,
việc xác định tọa độ với độ chính xác
cao trong hệ WGS 84 khó khả thi [5].
Đây chính là thách thức chủ yếu của bài
toán xác định, cập nhật lại các tham số
tính chuyển giữa VN 2000 và WGS 84.
Để giải quyết được khó khăn này,
chúng tôi đề xuất giải pháp sử dụng hệ
quy chiếu thứ ba làm yếu tố trung gian
là ITRS [6]. Kết nối giữa VN 2000 và
WGS 84 sẽ được thực hiện gián tiếp
thông qua mối liên hệ giữa ITRS (cụ thể
hóa bằng các khung quy chiếu ITRF)
với VN 2000 và WGS 84. Đây được
xem là lựa chọn tốt nhất bởi các lý do sẽ
phân tích chi tiết trong mục 2.
2. Hệ quy chiếu VN 2000, WGS
84 và ITRS
2.1. VN 2000
Trước năm 2000, Việt Nam sử
dụng hệ tọa quy chiếu quốc gia Hà Nội
72 (HN 72). Tuy nhiên HN 72 có yếu
điểm là:
- Ellipsoid thực dụng chưa được
định vị tại Việt Nam
- Thiếu tính thống nhất và độ chính
xác không đồng đều
Vì thế, từ những năm 90 của thế kỷ
trước, vấn đề thiết lập một hệ quy chiếu
mới đảm bảo sự phù hợp và thống nhất
cho lãnh thổ Việt Nam đã được đặt ra.
Để thống nhất các mạng lưới toạ độ đã
có ở trong nước và thuận lợi cho xu thế
hội nhập quốc tế, năm 1996, Tổng cục
Địa chính (cũ) đã đo lưới GPS hạng “0”
phủ trùm cả nước. Trên cơ sở tập hợp
số liệu của các mạng lưới trên toàn lãnh
thổ được xây dựng qua nhiều thời kỳ, từ
năm 1998 đến 1999, Tổng cục Địa chính
đã triển khai công trình “Xây dựng hệ
quy chiếu và hệ tọa độ quốc gia” (VN
2000) [3]. Ngày 12/07/2000, VN 2000
đã chính thức được đưa vào sử dụng
thay thế cho hệ quy chiếu HN 72 [2].
Hệ tọa độ VN 2000 được thiết lập trên
ellipsoid WGS 84 (được định vị tại Việt
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 2018 73
Nam. Để biết thêm thông tin chi tiết về
VN 2000 có thể tham khảo thêm [3].
2.2. WGS 84
WGS 84 là hệ quy chiếu Trái đất
quy ước, được thiết lập năm 1987. Hệ
WGS 84 được xác định với gốc tọa độ
khá gần với trọng tâm trái đất (xét cả
phần đại dương và khí quyển quanh Trái
đất) [18]. Hệ WGS 84 được đảm bảo bởi
khung quy chiếu WGS 84 với các trạm
trong đoạn điều khiển của hệ thống GPS
và một số trạm quan sát của các tổ chức
khác [18].
Hệ tọa độ đề các sử dụng trong
WGS 84 có các trục tọa độ như sau [18]:
- Trục OZ hướng về Cực Bắc (thời
điểm 1984.0) với sai số cỡ 0.005”;
- Trục OX xác định trên mặt phẳng
kinh tuyến gốc (thời điểm 1984.0) với
sai số cỡ 0.005”;
- Trục OY tạo với OX, OZ thành
một tam diện thuận.
Các tham số kích thước và hình
dạng Ellipsoid tham chiếu của hệ quy
chiếu WGS 84 được cho trong bảng 1.
Bảng 1. Các tham số kích thước và hình dạng trong hệ WGS 84 [18]
Hằng số Ký hiệu Đơn vị Giá trị
Bán trục lớn A m 6378137
Độ dẹt F - 1/298,257223563
Độ lệch tâm thứ nhất e2 - 0.00669438
Hằng số hấp dẫn GM m3/s2 3986004,418.108
Hệ số điều hóa đới bậc hai J
2
- 108263.10-8
Tốc độ quay của Trái đất rad/s 7292115.10-11
Thế trọng trường chuẩn trên Ellipsoid U
0
m2/s2 62636851.7146
Trọng lực chuẩn trên xích đạo
E
m/s
2
9.7803253359
Trọng lực chuẩn tại cực
P
m/s
2
9.8321849378
Kể từ khi thiết lập, hệ WGS 84 đã trải qua 6 lần cập nhật với thông tin chi tiết
được cho trong bảng 2.
Bảng 2. Độ chính xác các phiên bản trong hệ quy chiếu WGS 84 [20]
STT Phiên bản
Thời điểm thực hiện
Thời điểm
tham chiếu
Độ chính xác
vị trí điểm
Lịch vệ tinh
quảng bá
Lịch vệ tinh
chính xác
1 WGS 84(Doppler) 1987 1/1/1987 1-2 (m)
2 WGS 84 (G730) 29/6/1994 29/6/1994 1994.0 10 cm
3 WGS 84 (G873) 29/1/1997 29/1/1997 1997.0 5 cm
4 WGS 84 (G1150) 20/1/2002 20/1/2002 2001.0 1cm
5 WGS 84 (G1674) 8/2/2012 8/2/2012 2005.0 < 1 cm
6 WGS 84 (G1762) 16/10/2013 16/10/2013 2005.0 < 1 cm
Thông tin chi tiết về WGS 84 có trong tài liệu [18].
2.3. Hệ quy chiếu ITRS
Vào năm 1994, các nhà khoa học
thuộc Liên đoàn Trắc địa Quốc tế (IAG)
đã nhận thấy hệ quy chiếu cũng như hệ
toạ độ trái đất phải là một hệ động mới
có thể mô tả được đầy đủ các biến động
của thế giới thực. Ý tưở ng hì nh thà nh
hệ quy chiế u quố c tế (ITRS) có tí nh
đế n sự thay đổ i củ a cá c yế u gố c (gố c
toạ độ , trụ c toạ độ ,...) do hiệ n tượ ng tuế
sai, chương độ ng, chuyể n dị ch cự c trá i
đấ t và chuyể n độ ng kiế n tạ o đã thà nh
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 201874
hiệ n thự c. Các thông số liên quan tới
hệ quy chiếu cần phải được xác định
gồ m: điểm gốc, hướng, hệ số tỉ lệ và
thời gian. Hiệ n thự c hoá hệ quy chiế u
ITRS tạ i mộ t thờ i điể m cụ thể đượ c gọ i
là khung quy chiếu ITRF. ITRF được
thiết lập bởi Cơ quan quố c tế về chuyể n
độ ng quay củ a trá i đấ t và hệ quy chiế u
[17] trên cơ sở kết hợp các tệp tọa độ
các trạm đo (Sets of Station Coordinates
- SSC) và vận tốc được xác định từ
các quan trắc của các phương pháp
trắc địa không gian như VLBI (Very
Long Baseline Interferometry), LLR
(Lunar Laser Ranging), SLR (Satellite
Laser Ranging), GPS (từ năm 1991) và
DORIS (Radiopositioning Integrated by
Satellite, từ 1994). Các trạm SSC được
quan trắc và tính toán liên tục nên toạ độ
và vậ n tố c của chúng biế n thiên theo thờ i
gian và do đó sẽ có nhiề u sả n phẩ m ITRF
khá c nhau, gọ i chung là ITRF
xy
(XY có
ý nghĩ a về dấ u mố c thờ i gian, toà n bộ
số liệ u từ năm XY trở về trướ c đượ c sử
dụ ng để xá c đị nh ra ITRF
xy
). Cho đế n
nay đã có các phiên bản khác nhau của
ITRF như ITRF1992 [12], ITRF1996
[11], ITRF1997 [13], ITRF2000 [10],
ITRF2005 [8], ITRF2008 [7] và gần
đây nhất là ITRF2014 [9]. Tính chuyển
toạ độ giữa các phiên bản ITRF được
thực hiện dựa trên 14 tham số công bố
trên trang Web “”.
Tổ chứ c dị ch vụ GPS trong nghiên
cứ u đị a độ ng lự c (IGS) do IAG thà nh lậ p
gồ m khoảng 200 cơ quan đo đạc trên thế
giới tham gia đã thiết lập lướ i trắ c đị a
quố c tế IGS gồ m trên 300 trạ m GPS (ban
đầ u 140 điể m) có má y thu đượ c đặ t cố
đị nh, liên tụ c thu tí n hiệ u củ a hệ thố ng
GNSS. IGS cung cấp các số liệu nhằm
nâng cao chất lượng ITRF. Từ khi bắt
đầu hoạt động, các trung tâm phân tích
của IGS đã sử dụng ITRF để tính toán
quỹ đạo trên một số lưới thành phần.
Lị ch vệ tinh chí nh xá c củ a IGS đượ c xá c
đị nh trong hệ thố ng toạ độ ITRF. Hiện
nay khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
cũng đã hình thành lưới toạ độ khu vực
mà mỗi nước đều có điểm tham gia mạng
lưới. Các trị đo của lưới đều được chỉnh
lý về lưới IGS và hệ thống toạ độ ITRF.
ITRF được coi là tiêu chuẩn chung
nhằm đảm bảo sự tích hợp giữa các hệ
thống thông tin không gian vì các lý do
sau đây:
- Hiện nay, hầu hết các hệ tọa độ
toàn cầu và khu vực đều tương thích
hoặc có mối liên hệ với ITRF [6].
- Nhiều quốc gia đang trên tiến
trình hiện đại hóa hệ tọa độ quốc gia
theo hướng tương thích với ITRF [6].
- Các hệ thống định vị vệ tinh toàn
cầu đều sử dụng hệ tọa độ tương thích
với ITRF [6].
- Các trạm của mạng lưới GNSS
trên toàn thế giới dễ dàng có được tọa
độ trong khung ITRF trên cơ sở sử dụng
các sản phẩm của IGS [6].
3. Đề xuất phương pháp xác định
bộ tham số mới để tính chuyển tọa độ
giữa VN 2000 và WGS 84
Do khó khăn trong việc xác định
tọa độ WGS 84 với độ chính xác cao
cho các điểm trên phạm vi lãnh thổ và
lãnh hải Việt Nam [5] nên bài báo đề
xuất giải bài toán tính chuyển tọa độ
giữa VN 2000 và WGS 84 trên cơ sở sử
dụng ITRF làm yếu tố trung gian. Theo
đó, mối liên hệ giữa VN 2000 và WGS
84 được xác định theo sơ đồ:
VN2000 → WGS84 = (VN2000 →
ITRF) + (ITRF → WGS84)
Theo sơ đồ trên, để xác định các
tham số tính chuyển giữa VN 2000 và
WGS 84, cần thực hiện ba bước:
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 2018 75
- Bước 1: Xác định các tham số
tính chuyển giữa hệ VN 2000 và ITRF
- Bước 2: Xác định các tham số
tính chuyển giữa ITRF và WGS 84
- Bước 3: Xác định các tham số
tính chuyển giữa VN 2000 và WGS 84
dựa trên hai bộ tham số được xác định
trong bước 1 và bước 2.
Các tham số tính chuyển giữa
ITRF và WGS 84 đã được công bố
trên trang Web [https://confl uence.
q p s . n l / p a g e s / v i e w p a g e . a c t i o n ?
pageId=29855173#WorldGeodetic_
S y s t e m 1 9 8 4 ( W G S 8 4 ) -
WGS84andITRF]. Do đó, bài báo này chủ
yếu trình bày giải pháp xác định các tham
số tính chuyển giữa VN 2000 và ITRF.
Tọa độ trong hệ VN 2000 độc lập
với thời gian. Ngược lại, tọa độ ITRF
phụ thuộc vào thời gian. Do đó để tính
chuyển tọa độ giữa hai hệ cần sử dụng 14
tham số tính chuyển, bao gồm 7 tham số
gốc và 7 tham số vận tốc tương ứng [15].
Cách tiếp cận này đang được nhiều nơi
trên thế giới áp dụng như Châu âu [19],
Úc [15, 16], Mỹ, Canada, Mexico [19].
Công thức chung để chuyển đổi tọa
độ từ khung ITRF sang VN 2000, được
biểu diễn theo phương trình sau:
)1()2( )1( XRDTX
T (1)
Trong đó, X
(2)
là véc tơ tọa độ trong
hệ VN 2000, X
(1)
là véc tơ tọa độ trong
ITRF; T là véc tơ chuyển dịch gốc tọa
độ, D là hệ số tỉ lệ dài, R là ma trận góc
xoay (biểu diễn theo radian) [15]:
1
1
1
12
13
23
RR
RR
RR
RT (2)
Vì D là đại lượng nhỏ nên có thể bỏ
qua số hạng bậc 2, do đó (1) có thể biểu
diễn thành:
(3)
Bảy tham số chuyển đổi T
1
, T
2
, T
3
, R
1
, R
2
, R
3
và D có đặc tính biến thiên theo
thời gian, do đó phương trình có thể biểu diễn dưới dạng [15]:
(4)
Trong đó t là thời điểm tính, t
0
là thời điểm ban đầu (thời điểm 7 tham số
chuyển đổi gốc được áp dụng) và:
Tương ứng tại hai thời điểm khác
nhau, sẽ có hai phương trình dạng (1).
Trừ hai phương trình và bỏ qua số hạng
bậc cao, ta sẽ có [15]:
(5)
Trong đó tương ứng là
vận tốc của RDTXX ,,,, 12 .
Vì D và R rất nhỏ, nên phương
trình (5) có thể viết lại thành [15]:
(6)
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 201876
Mười bốn tham số chuyển đổi tọa
độ được xác định dựa trên phương pháp
số bình phương nhỏ nhất, trong đó yêu
cầu cần có một số điểm có tọa độ trong
cả hai hệ. Các phương trình (1) và (6)
được viết lại thành [15]:
(7)
(8)
Với:
321321 ,,,,,, RRRDTTT
Phương pháp số bình phương nhỏ
nhất có:
)()( 12
1 XXPAAPA x
T
x
T (9)
(10)
Trong đó P
X
và P
v
tương ứng là
các ma trận trọng số của tọa độ và vận
tốc trạm.
Sai số trung phương trọng số đơn
vị được xác định theo công thức [15]:
,/))(.()(( 112
1
12
2
0 nXXPAXXPAs x
T
x
T
X
(11)
Trong đó n là số bậc tự do.
Để xác định được mối quan hệ
giữa VN 2000 và ITRF theo thuật toán
trên cần có ít nhất 05 điểm trên phạm
vi lãnh thổ Việt Nam có tọa chính xác
cao trong cả hai hệ. Xác định tọa độ
trong hệ VN 2000 với độ chính xác cao
trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam là bài
toán không quá phức tạp. Tuy nhiên,
để có tọa độ trong ITRF, cần có các
điểm đo GNSS với độ chính xác cao và
xử lý với quy trình chặt chẽ. Khá c vớ i
công tá c xử lý số liệ u GNSS củ a nhiệ m
vụ đo đạ c điề u tra cơ bả n thườ ng đượ c
thự c hiệ n bằ ng phầ n mề m thương mạ i,
số liệu đo GNSS trong bài toán này
cần đượ c xử lý bằ ng phầ n mề m chuyên
dụ ng cho mụ c đí ch nghiên cứ u khoa
họ c BERNESE vì đây là một trong bốn
phần mềm có độ ổn định và đã được
kiểm nghiệm bởi nhiều nhà khoa học
[4, 14, 16]. Lướ i GNSS đượ c xử lý trên
cơ sở kế t nố i vớ i cá c trạ m của trong
mạng lưới IGS trong khu vự c.
Với ít nhất năm điểm song trùng (có
tọa độ trong cả hai hệ) sẽ xác định được
mối liên hệ giữa VN 2000 và ITRF. Độ
chính xác đạt được của các tham số tính
chuyển tọa độ phụ thuộc vào độ chính
xác của tọa độ của các điểm song trùng
và số lượng cùng với sự phân bố các
điểm song trùng. Số lượng điểm song
trùng càng lớn thì độ chính xác của kết
quả xác định các tham số càng cao.
Sau khi xác định được các tham số
cần tiến hành kiểm tra, đánh giá chất
lượng dựa vào các điểm kiểm tra theo
các bước sau:
- Bước 1: Xác định các trạm có tọa
độ trong cả hai hệ và vận tốc trong ITRF;
- Bước 2: Xác định các tham số tính
chuyển tương ứng tại thời điểm tính chuyển;
- Bước 3: Đánh giá độ chính xác của
các tham số trên cơ sở so sánh tọa độ tính
chuyển được so với tọa độ đã biết.
Sau khi xác định được mối quan
hệ giữa VN 2000 và ITRF, mối quan hệ
giữa VN 2000 và WGS 84 sẽ được xác
lập trên cơ sở coi ITRF là yếu tố trung
gian. Đây là cơ sở khoa học cho việc
xác định bộ tham số mới để tính chuyển
giữa VN 2000 và WGS 84. Kết quả tính
toán thực nghiệm sẽ được tập thể tác giả
công bố trong các bài báo tiếp theo.
4. Kết luận
Sau mười năm công bố, bộ tham số
tính chuyển tọa độ giữa WGS 84 và VN
2000 nên được cập nhật lại bởi WGS 84
đã được nâng cấp lên phiên bản mới.
Do việc xác định tọa độ WGS 84 với
chính xác cao không dễ dàng thực hiện
trong điều kiện Việt Nam nên bài báo đã
đề xuất giải pháp sử dụng hệ quy chiếu
ITRS (cụ thể hóa bằng các khung quy
chiếu ITRF) làm yếu tố trung gian. Bộ
tham số tính chuyển giữa VN 2000 và
WGS 84 được xác định gián tiếp thông
qua xác định các bộ tham số tính chuyển
giữa ITRF với từng hệ.
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 19 - năm 2018 77
Bài báo tập trung phân tích nguyên
nhân và đề xuất giải pháp khoa học để
xác định bộ tham số mới để tính chuyển
giữa VN 2000 và WGS 84. Trong các
công trình tiếp theo, tập thể tác giả sẽ
công bố kết quả tính toán thực nghiệm.
Lờ i cả m ơn: Tậ p thể tá c giả xin
chân thà nh cả m ơn sự hỗ trợ nghiên cứ u
củ a Đề tà i khoa họ c cấ p cơ sở:“Nghiên
cứ u kết nối tọa độ theo quan điểm động
giữa các hệ quy chiếu trắc địa”, mã số
13.01.17.O.06 của Trường Đại học Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Quyết định số 05/2007/QĐ-BTNMT,
ngày 27 tháng 2 năm 2007 về sử dụng hệ thống
tham số tính chuyển giữa hệ tọa độ quốc tế
WGS84 và hệ tọa độ quốc gia VN 2000”.
[2]. Quyết định số 83/2000/QĐ-TTg,
ngày 12 tháng 7 năm 2000 của Thủ tướng
chính phủ về sử dụng hệ quy chiếu và hệ tọa
độ quốc gia Việt Nam.
[3]. Trần Bạch Giang (2003). Giới thiệu
hệ quy chiếu và hệ tọa độ quốc gia Việt Nam.
[4]. Vy Quốc Hải, Kang Joon Mook
(2001). Some results of examination on
duration of measuring session by the Static
GPS method. Journal of Geology, series B,
No 17-18/2001, pp.111-120, Hà Nội.
[5]. Don Abbey (1994). WGS84, ITRF
& GDA94: What’s the difference?.
[6]. Altamimi Z., (2012). Role and
importance of the International Terrestrial
Reference Frame for sustainable development
https://unstats.un.org/unsd/geoinfo/RCC/
docs/rccap19/Side%20events/IAG-GGOS-
ITRF-report2UNRRC-10Oct2012.pdf.
[7]. Altamimi Z., Collilieux X.,
Métivier L. (2011). ITRF2008: an improved
solution of the International Terrestrial
Reference Frame. Journal of Geodesy,
85(8):457-473.
[8]. Altamimi Z., Collilieux X.,
Legrand J., Garayt B and Boucher C.
(2007). ITRF2005: A new release of the
International Terrestrial Reference Frame
based on time series of station positions
and Earth Orientation Parameters. Journal
of Geophysical Research, 112, B09401.
[9]. Altamimi Z., Rebischung R.,
Métivier L., Collilieux X. (2016). ITRF2014:
A new release of the International Terrestrial
Reference Frame modeling nonlinear
station motions, Journal of Geophysical
Research. Journal of Geophysical Research,
121 (8), 6109–6131.
[10]. Altamimi Z., Sillard P., and
Boucher C. (2002). ITRF2000: A new
release of the International Terrestrial
Reference Frame for Earth science
application. J. Geophys. Res.
[11]. Boucher C., Altamimi Z., P and
Sillard (1998). Results and analysis of the
ITRF96, Technical Note 24. Central Bureau of
the IERS, Observatoire de Paris, Paris, France.
[12]. Boucher C