Tóm tắt
Di dân và tái định cư (TĐC) không đơn thuần là hoạt động dịch chuyển cư dân. Xét trên phương
diện chính sách, TĐC là một quá trình cần chú ý đến nhiều chiều cạnh, từ đảm bảo chỗ ở đến các vấn
đề an sinh xã hội, vấn đề hỗ trợ việc làm và những thay đổi trong lối sống của một cộng đồng do những
tác động mà chính sách đưa tới. Đối với cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, TĐC là một bước chuyển
trong tiến trình lịch sử văn hóa cộng đồng, từ quá trình hình thành, phát triển, tồn tại và hiện nay đang
đối diện với những thách thức của sự thay đổi, thậm chí là tan rã cộng đồng. Để nghiên cứu quá trình
biến đổi văn hóa của cộng đồng này, chúng tôi đưa ra một số vấn đề lý luận và lý thuyết áp dụng khi
nghiên cứu, bao gồm những bàn luận về di dân và tái định cư, thuyết Sinh thái học văn hóa và bối cảnh
đô thị hóa.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Di dân, tái định cư và biến đổi văn hóa cộng đồng ngư dân Vạn Chài Hạ Long - Hướng lý thuyết áp dụng khi nghiên cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 23 - Tháng 3 - 201858
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
DI DÂN, TÁI ĐỊNH CƯ VÀ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN VẠN CHÀI HẠ LONG -
HƯỚNG LÝ THUYẾT ÁP DỤNG KHI NGHIÊN CỨU
ĐOÀN VĂN THẮNG
Tóm tắt
Di dân và tái định cư (TĐC) không đơn thuần là hoạt động dịch chuyển cư dân. Xét trên phương
diện chính sách, TĐC là một quá trình cần chú ý đến nhiều chiều cạnh, từ đảm bảo chỗ ở đến các vấn
đề an sinh xã hội, vấn đề hỗ trợ việc làm và những thay đổi trong lối sống của một cộng đồng do những
tác động mà chính sách đưa tới. Đối với cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, TĐC là một bước chuyển
trong tiến trình lịch sử văn hóa cộng đồng, từ quá trình hình thành, phát triển, tồn tại và hiện nay đang
đối diện với những thách thức của sự thay đổi, thậm chí là tan rã cộng đồng. Để nghiên cứu quá trình
biến đổi văn hóa của cộng đồng này, chúng tôi đưa ra một số vấn đề lý luận và lý thuyết áp dụng khi
nghiên cứu, bao gồm những bàn luận về di dân và tái định cư, thuyết Sinh thái học văn hóa và bối cảnh
đô thị hóa.
Từ khóa: Di dân, tái định cư, biến đổi văn hóa, ngư dân, Hạ Long
Abstract
Migration and resettlement are not simply relocation activities. Seen from perspective of policy,
resettlement is a process that needs attention in a number of dimensions, from ensuring housing to
social security issues, employment support issues and changes in the lifestyle of a community due to
the impacts that policy brings. For the community of fishermen in Ha Long, resettlement is a transform
step in the process of community cultural history, from the process of formation, development, survival
and is now facing with the challenge of changes, even disintegrate the community. In order to study the
cultural transformation of this community, we present some theoretical to be dealt with in the study,
including discussions on migration and resettlement, cultural ecological theory and urbanization
context.
Keywords: Migration, resettlement, cultural change, fishermen, Ha Long
Đặt vấn đề
Di dân và tái định cư (TĐC) là một hiện tượng kinh tế - xã hội trong lịch sử loài người mà động lực
của nó bắt nguồn từ những thay đổi của môi
trường sống, sự chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các vùng, miền. Hiện tượng này diễn
ra mạnh mẽ ở Việt Nam trong những năm gần
đây do những tác động từ chính sách cũng
như xuất phát từ những lực đẩy - lực hút khi
so sánh tương quan nông thôn - đô thị. Di dân,
đặc biệt là di dân có tổ chức thường gắn với
việc thay đổi không gian sống, các điều kiện
thực hành sinh kế, văn hóa của cộng đồng
người chuyển cư. Việc di dân (dù là di dân tự
do hay di dân “cưỡng bức”) tạo ra sự tương
tác giữa cộng đồng người di cư và môi trường
sống mới, tương tác giữa các giá trị văn hóa
59Số 23 - Tháng 3 - 2018
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
giữa cộng đồng di dân với môi trường xã hội
tại nơi đến. Từ đó đưa đến những tiếp xúc
và giao lưu văn hóa, cùng với quá trình thích
nghi với môi trường tự nhiên, môi trường xã
hội, đưa đến những biến đổi các thực hành
văn hóa và quan niệm về giá trị, chuẩn mực và
các khuôn mẫu văn hóa của cộng đồng. Mặt
khác, quá trình này cũng làm nảy sinh nhiều
vấn đề, trong đó là sự hội nhập của người di
cư trong môi trường sống mới, yêu cầu phân
tích vai trò, vị thế cũng như những khó khăn
mà người di cư gặp phải trong quá trình thích
ứng với môi trường đang hàng ngày thay đổi
cuộc sống của họ.
Thời gian gần đây, có một dự án di dân và
TĐC được báo chí cũng như các nhà nghiên
cứu quan tâm bởi sự nổi tiếng của cộng đồng
di dân cũng như sự nổi tiếng của môi trường
sinh thái mà cộng đồng này sinh sống. Đó là
cộng đồng ngư dân vạn chài vịnh Hạ Long.
Cộng đồng này đã có một quá trình sinh sống
lâu dài trong môi trường sinh thái vịnh Hạ
Long. Các giá trị văn hóa cùng tổ chức xã hội
của cộng đồng đã được hình thành và phát
triển để thích ứng với điều kiện tự nhiên, xã
hội, kinh tế đặc thù này. Hiện nay, ngư dân đã
phải rời bỏ môi trường sống của mình để đảm
bảo cho sự bền vững của di sản Vịnh Hạ Long,
kì quan thiên nhiên thế giới của Việt Nam khi
chính quyền thực hiện “Đề án di dời nhà bè
trên vịnh Hạ Long”. Được thụ hưởng một số
quyền lợi nhưng việc bị tách ra khỏi không
gian sống quen thuộc đã tạo ra những hệ quả
về mặt văn hóa – xã hội bắt nguồn từ việc thay
đổi không gian sống và sinh kế của cộng đồng.
Điều này thôi thúc cần có những nghiên cứu
khoa học nhằm đánh giá hiệu quả, hệ quả của
chính sách để có những điều chỉnh và hỗ trợ
cộng đồng ngư dân kịp thời trong việc ổn định
cuộc sống, đảm bảo sinh kế bền vững và hội
nhập văn hóa với cộng đồng dân cư đô thị ở
trên bờ. Hơn nữa, những nghiên cứu thuộc
dạng này cũng góp phần bổ sung những luận
cứ từ thực tiễn, làm sáng tỏ những lý thuyết về
di dân, biến đổi văn hóa.
1. Vấn đề di dân và tái định cư
Khái niệm di dân
Di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội
mang tính quy luật, một cấu thành gắn với sự
phát triển (1, tr.13), một hiện tượng nhân khẩu
học chịu tác động tổng hòa của nhiều yếu tố
khác nhau như tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính
trị, tôn giáo, tâm lý...(10, tr.63). Hiện tượng này
tạo ra những tác động tới sự phân bố dân cư,
phân bố lại lao động và các vấn đề kinh tế, văn
hóa, xã hội. Bởi vậy, đây là một chủ đề được
quan tâm nghiên cứu và chú trọng trong
hoạch định chính sách, đưa đến việc có nhiều
cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau.
Theo nhà nghiên cứu Đặng Nguyên Anh,
di dân theo nghĩa rộng là “sự chuyển dịch bất
kỳ của con người trong không gian và thời
gian nhất định, kèm theo thay đổi nơi cư trú
tạm thời hay vĩnh viễn. Với khái niệm này, di
dân đồng nhất với sự di động dân cư”; di dân
theo nghĩa hẹp là “sự di chuyển dân cư từ một
đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ
khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới, trong một
khoảng thời gian nhất định. Khái niệm này
khẳng định mối liên hệ giữa sự di chuyển và
thiết lập nơi cư trú mới” (1, tr.36).
Nhà nghiên cứu Hoàng Văn Chức cũng đưa
ra các cách hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp
của thuật ngữ “di dân”. Theo đó, với nghĩa rộng:
di dân được hiểu là sự chuyển động cơ học của
dân cư. Như vậy, bất cứ sự chuyển động nào
của con người trong không gian gắn với sự
thay đổi theo vị trí lãnh thổ cũng được coi là
di dân. Theo nghĩa hẹp: Di dân được hiểu là sự
chuyển dịch của dân cư theo lãnh thổ, sự phân
bố lại dân cư. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự
chuyển dịch nào của dân cư cũng là di dân, mà
di dân là sự di chuyển của dân cư ra khỏi biên
giới đất nước hay ra khỏi lãnh thổ hành chính
mà họ đang cư trú, gắn với việc thay đổi chỗ ở
của họ (2, tr.9).
Còn theo Nguyễn Đình Hòe, di cư ( hay di
dân) là sự chuyển đổi chỗ ở vĩnh viễn. Đối với
Số 23 - Tháng 3 - 201860
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nơi ở cũ, người di cư được gọi là người xuất cư
(out – migrant) còn nơi đến gọi họ là dân nhập
cư (in – migrant). Tác giả cũng khẳng định
rằng, di dân là một quá trình khách quan, gây
biến động lớn về xã hội và tác động đáng kể
đến tài nguyên và môi trường, đặc biệt là nơi
tiếp nhận người di cư (4, tr.17).
Nhìn chung, di dân gắn với việc con người
chuyển khỏi nơi cư trú thường xuyên đến một
nơi xác định với một khoảng cách giữa hai
không gian gọi là độ dài di chuyển và phải thay
đổi nơi cư trú, thiết lập nơi cư trú mới. Dấu hiệu
rõ ràng nhất của di dân là sự dịch chuyển dân
số: làm tăng dân số cơ học ở nơi đến và làm
giảm dân số cơ học ở nơi đi. Cũng cần chú ý
đến vấn đề thời gian của di dân. Tùy theo từng
loại hình di dân mà thời gian có thể là vài tuần,
vài tháng thậm chí là vĩnh viễn. Ngoài ra có
thể nhận biết di dân qua một đặc điểm nữa đó
là sự di chuyển nơi ở và thay đổi nơi làm việc,
nghề nghiệp, các hoạt động sinh sống hằng
ngày và thay đổi các mối quan hệ xã hội.
Hiện tượng di dân xuất phát từ những lực
đẩy từ vùng gốc nơi đang sinh sống khiến cư
dân phải chuyển cư, từ lực hút bởi sự hấp dẫn
của nơi đến hoặc do cả hai yếu tố này. Tuy vậy,
có trường hợp thuần túy chỉ từ lực đẩy tại nơi đi,
đó là những cuộc di dân có yếu tố “cưỡng bức”,
chẳng hạn như từ chính sách của chính quyền
như trường hợp di dân khỏi lòng hồ thủy điện.
Về phân loại loại hình di dân, có thể dựa
vào các tiêu chí khác nhau, tùy mục đích và
hướng tiếp cận của nhà nghiên cứu hoặc nhà
hoạch định chính sách. Nguyễn Anh Tuấn (6,
tr.65-66) trong bài nghiên cứu của mình đã tập
hợp các cách phân loại di dân như sau:
Xét theo tiêu chí tổ chức, di dân có hai loại:
Di dân có tổ chức và di dân tự do.
Nếu xét theo không gian, có thể chia di dân
thành các loại hình: Di dân nông thôn – nông
thôn; Di dân nông thôn – đô thị; Di dân đô thị -
đô thị; Di dân đô thị - nông thôn. Trong đó phổ
biến là loại hình Di dân nông thôn - đô thị.
Nếu xét tiêu chí về tính chất, có thể chia
thành di dân tự nguyện và di dân ép buộc.
Ngoài ra, xét theo tiêu chí thời gian, di dân có
thể được phân chia thành các bộ phận sau: Di
dân “con lắc; Di dân tạm thời; Di dân theo mùa
vụ; Di dân lâu dài.
Dựa vào các tiêu chí về di dân nêu trên, có
thể sắp xếp việc di dân của các nhóm, cộng
đồng thuộc vào các loại hình khác nhau để
phân tích tính chất, mức độ của việc di dân
cũng như các biến tác động tới sinh kế và văn
hóa của họ. Với cộng đồng ngư dân vạn chài
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, họ phải rời bỏ môi
trường sống của mình (ngư dân dịch chuyển lên
bờ từ 30/6/2014) để đảm bảo cho sự bền vững
của di sản Vịnh Hạ Long, kì quan thiên nhiên
thế giới của Việt Nam bằng “Đề án di dời nhà bè
trên vịnh Hạ Long” của chính quyền tỉnh Quảng
Ninh. Nếu xét các tiêu chí về di dân nêu trên,
có thể gắn di dân của cộng đồng này với loại
hình: di dân có tổ chức bởi chính sách tổ chức
lại không gian dân cư theo hướng nông thôn
(cụ thể là dân cư từ các làng chài) – đô thị (khu
TĐC nằm trong không gian đô thị Hạ Long),
mang tính chất “cưỡng bức” và là di dân lâu dài,
thậm chí là di dân vĩnh viễn. Như vậy, ngư dân
phải chuyển đổi không gian sống và rời bỏ nơi
cư trú đã gắn bó hàng trăm năm, nơi đã biến
thành quê hương, là môi trường sinh thái mà
ngư dân tương tác, qua đó tạo nên những giá
trị văn hóa tiêu biểu, độc đáo của mình. Do đó,
tính chất của việc di dân này sẽ khác với các loại
hình di dân tạm thời, di dân tự do. Về cơ bản,
việc đưa ngư dân lên bờ sẽ giúp cho những nhà
quản lý dễ dàng kiểm soát về dân số cũng như
môi trường Vịnh Hạ Long, hơn là việc đầu tư cơ
sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật để đảm bảo xử
lý tốt rác thải từ sinh hoạt của ngư dân.
Tái định cư và các vấn đề văn hóa – xã hội
TĐC là việc thiết lập một chỗ ở mới cho một
cộng đồng đã di cư khỏi nơi cư trú trước đây
của họ. Đối với cộng đồng du cư, có thuật ngữ
“định cư” để chỉ việc cộng đồng này lập cư tại
một địa điểm xác định.
61Số 23 - Tháng 3 - 2018
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Theo Nguyễn Đình Hòe, TĐC cũng là một
đặc thù của quá trình dân cư trong lịch sử
nhân loại. Hiện tượng này giúp xã hội sử dụng
được nguồn tài nguyên đa dạng của trái đất,
làm tăng khả năng tải của lãnh thổ và khởi
động quá trình văn minh trên cơ sở hội nhập
các nền văn hóa và kinh nghiệm sử dụng tài
nguyên. Nhưng TĐC cũng đưa đến những thất
bại, gây ra những hậu quả về phương diện
xã hội và môi trường nếu thiếu cân nhắc mối
quan hệ giữa động lực dân cư và môi trường
cư trú. Đòi hỏi phải có sự quy hoạch hợp lý,
xử lý tốt mối quan hệ sinh thái học và khai
thác hợp lý tài nguyên môi trường (4, tr.29).
Về phương diện văn hóa, TĐC cũng đặt ra các
vấn đề trong khả năng hội nhập về văn hóa,
phong tục tập quán giữa cộng đồng nhập cư
và cộng đồng địa phương. Thậm chí, các dự án
TĐC có nhiều khả năng sẽ thất bại nếu người
nhập cư không có những kinh nghiệm để
thích ứng với môi trường sinh thái tại khu TĐC,
không có các kỹ thuật và hoạt động canh tác
tương tự và không có các kinh nghiệm quản lý
môi trường cũng như lối sống phù hợp ở môi
trường mới (4, tr.34). Khu vực TĐC hiếm trường
hợp có điều kiện sinh thái giống quê hương
của người chuyển cư, do đó cần hướng dẫn, có
các cơ chế, chính sách hỗ trợ người chuyển cư
trong việc sử dụng tài nguyên, môi trường của
nơi ở mới và hội nhập văn hóa với môi trường
văn hóa – xã hội xung quanh. Đồng thời, cũng
cần có những hình thức tuyên truyền, vận
động, hướng dẫn cộng đồng địa phương biết
cách ứng xử, không định kiến, tôn trọng và
hòa nhập với văn hóa của cộng đồng định cư.
Khi thực hiện dự án TĐC, ngoài việc đánh
giá chi phí cho di dân và xây dựng khu TĐC,
“ngoài những chi phí và hoàn bị nơi đến, điều
quan trọng là đo lường, dự báo và có phương
án phù hợp, cái giá phải trả về mặt tinh thần,
sự cắt rời các mối quan hệ, thói quen, tập
quán có khả năng tạo nên những cú sốc văn
hóa khi phải rời bỏ quê cũ”. “Con người sống
trong không gian quen thuộc, họ có tức thì
và thường xuyên sự hiểu biết gắn với môi
trường sống, dễ dàng điều chỉnh mọi sự cố
bất thường, thì đến vùng đất mới, điều đó họ
hoàn toàn không thể sớm có được. Kiến thức
về nơi ở mới của người di dân luôn gặp phải
nhiều thử thách, trải nghiệm lâu dài mới có thể
nhận biết được những điểm thuận lợi, bất lợi.
Sự lúng túng, hoang mang tại nơi ở mới trong
giai đoạn đầu là điều dễ hiểu” (3, tr.16).
Một vấn đề cần quan tâm là sự phai nhạt
các giá trị văn hóa làm nên bản sắc của cộng
đồng chuyển cư và quá trình biến đổi văn hóa.
Hay nói cách khác, đó là sự tan rã và biến mất
cộng đồng về mặt văn hóa. Hiện tượng này
không hiếm trong các dự án TĐC như trường
hợp người Thái sau TĐC thủy điện Sơn La,
người Katu sau TĐC thủy điện A Vương (Quảng
Nam)(5)(3)... Nguyên nhân chính theo các
phân tích là sự thay đổi môi trường sống và các
điều kiện, phương thức sản xuất và sự cộng cư
xen kẽ với cộng đồng bản địa. Các thực hành
văn hóa và sinh kế được sáng tạo trong mối
tương tác giữa con người và môi trường được
tích lũy qua hàng trăm năm sẽ phải biến dạng
bởi cần một quá trình thích ứng dần với bối
cảnh sống mới. Cũng cần chú ý đến những
nhóm tuổi khác nhau trong cộng đồng di dân.
Người già thường thiệt thòi và khó hòa nhập
vào môi trường mới bởi họ đã tích lũy kinh
nghiệm để thích ứng với môi trường sống cũ
một cách sâu sắc.
Ở một khía cạnh khác, vấn đề đảm bảo sinh
kế sau TĐC cũng cần được quan tâm nhằm tạo
ra được những điều kiện về mặt vật chất để
làm cơ sở đảm bảo cho sự ổn định của cộng
đồng di cư.
Sinh kế là các hoạt động, các công việc giúp
tạo ra tiền bạc, vật chất để duy trì cuộc sống.
Theo từ điển tiếng Việt, sinh kế là cách thức, kế
sách thực hiện kiếm sống. Trong tiếng Anh, từ
livelihood (sinh kế) được định nghĩa “a means
of earning money in order to live (phương
tiện, cách thức kiếm tiền để sống)” (Oxford
Advanced Learner’s Dictionary). Theo định
nghĩa của DFID (Department for International
Số 23 - Tháng 3 - 201862
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Development – Bộ Phát triển Quốc tế Anh),
“sinh kế bao gồm các khả năng, các tài sản
(bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội)
và các hoạt động cần thiết để kiếm sống”. Dù
hiểu thế nào thì khái niệm sinh kế cũng đều có
mẫu chung là “kiếm sống”, tức là phương tiện
để đảm bảo, duy trì cho cuộc
sống con người.
Để nghiên cứu sinh kế,
các học giả thường sử dụng
khung phân tích sinh kế bền
vững bởi lý thuyết này được
đánh giá là “một cách phân
tích toàn diện về phát triển
và giảm nghèo. Cách tiếp cận
này giúp chúng ta hiểu được
việc con người sử dụng các loại vốn mình có
để kiếm sống, thoát nghèo, hay tránh bị rơi
vào đói nghèo như thế nào, vì nó không chỉ
minh họa các chiến lược tìm kiếm thu nhập,
mà nó còn phân tích và lý giải về việc tiếp cận,
sử dụng và phân phối các nguồn lực mà các cá
thể và hộ gia đình sử dụng để biến các nguồn
lực đó thành sinh kế” (8,tr.10). Sinh kế bền
vững có thể được hiểu như sau: “Một sinh kế
sẽ phải tùy thuộc vào khả năng và của cải (cả
nguồn lực vật chất và xã hội) và những hoạt
động mà tất cả là cần thiết để mưu sinh. Sinh
kế của một người hoặc của một gia đình chỉ
có thể là bền vững khi họ có thể đương đầu
và phục hồi trước những căng thẳng và biến
động, và tồn tục được hoặc nâng cao thêm các
khả năng và của cải của mình hiện này và của
cả trong tương lai mà không làm tổn hại đến
các nguồn lực môi trường” (12, tr.104). Như
vậy, yếu tố bền vững liên quan đến khả năng
đương đầu trước khủng hoảng và phục hồi
sau khủng hoảng. Bởi cuộc sống có nhiều bối
cảnh dễ tổn thương như thiên tai, mất mùa,
dịch bệnh, thậm chí là một căn bệnh hiểm
nghèo xuất hiện cũng tác động mạnh mẽ đến
kinh tế của cá nhân, gia đình, do đó, sinh kế
không chỉ là việc lo những vấn đề trước mắt
mà còn phải tạo tích lũy, làm công cụ bảo đảm
cho cuộc sống.
Về cơ bản, khung phân tích sinh kế bền
vững gồm 5 điểm chính: Bối cảnh dễ bị tổn
thương; Nguồn vốn sinh kế; Chính sách, tiến
trình và cơ cấu; Các chiến lược sinh kế; Kết quả
sinh kế. Mô hình sau đây sẽ cụ thể hóa khung
phân tích này:
Nguồn: DFID (2001)
Trong đó:
Vốn sinh kế (capital) là những năng lực vật
chất và phi vật chất mà con người có được để
đảm bảo cho hoạt động sinh kế. Theo khung
phân tích sinh kế bền vững, vốn này gồm 5
loại: vốn nhân lực, vốn xã hội, vốn vật chất, vốn
tự nhiên và vốn tài chính. Như vậy, vốn vừa là
cái hữu hình, cụ thể, cũng vừa là những thứ vô
hình như năng lực của con người. Trong đó:
- Vốn nhân lực (Human capital) là những kĩ
năng, kiến thức, sức khỏe và những năng lực
của con ngươi giúp họ có thể theo đuổi chiến
lược sinh kế. Có thể hiểu nguồn vốn này trên
khía cạnh chất lượng nguồn lao động.
- Vốn xã hội (Social capital) thường được
hiểu là những mối quan hệ xã hội, các mạng
lưới, các nhóm tạo điều kiện cho người dân
có thể theo đuổi sinh kế và đảm bảo lợi ích
của mình.
- Vốn vật chất (Physical capital) bao gồm
cơ sở hạ tầng, hàng hóa sản xuất để bổ trợ
sinh kế.
- Vốn tự nhiên (natural capital) nhắc đến
các nguồn tài nguyên như đất đai, nước, các
loại khoáng sản, nói chung là các yếu tố từ
tự nhiên có khả năng phục vụ cho các hoạt
động và khả năng sinh kế.
63Số 23 - Tháng 3 - 2018
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
- Vốn tài chính (Financial capital) bao gồm
các nguồn tài chính có sẵn để con người tiếp
tục hoạt động sinh kế, bao gồm khoản tiền dự
trữ hiện tại, khoản tiết kiệm hay khả năng huy
động, tiếp cận các nguồn tín dụng từ người
thân, bạn bè, các tổ chức tín dụng.
Với mỗi chiến lược sinh kế khác nhau, các
nguồn vốn có vai trò khác nhau. Ví dụ đối với
nông nghiệp thì nguồn vốn đất đai là yếu tố
quan trọng bậc nhất. Việc thu hồi đất nông
nghiệp do đó đã gây ra những tác động mạnh
mẽ đến sinh kế và cuộc sống nông dân. Tuy
nhiên, đối với một cộng đồng làm nghề chài
lưới, nguồn vốn tự nhiên mà cụ thể ở đây là trữ
lượng thủy hải sản, khả năng phục hồi của các
loài cá, tôm lại là một nguồn vốn quan trọng.
Tuy vậy, thậm chí một vùng đất nông nghiệp,
nơi mà người nông dân có thể mở rộng đất đai
và đàn gia súc cũng vẫn dễ bị tổn thương do
nhiều yếu tố khác như việc thiếu cơ sở hạ tầng
và các dịch vụ xã hội. Theo nhiều nghiên cứu,
nguồn vốn nhân lực lại là một yếu tố đóng vai
trò quan trọng trong việc xóa bỏ vòng luẩn
quẩn do nghèo đói gây ra. Một số nghiên cứu
thì chỉ ra tầm quan trọng của mạng lưới xã hội,
các mối quan hệ xã hội trong việc cộng đồng
thực hiện chiến lược sinh kế và duy trì khả
năng sinh kế của mình. Do đó, cần có những
sự nghiên cứu cụ thể để đánh giá tầm quan
trọng của các loại vốn.
Nguồn vốn sinh kế không bất biến, nó
có thể thay đổi theo xu hướng tăng lên hoặc
giảm đi trong tương lai.
Các tiến trình và cấu trúc (Structure and
processes) là khái niệm chỉ yếu tố thể chế,
chính sách, luật pháp, có khả năng ảnh hưởng
đến cách tiếp cận nguồn vốn, điều kiện trao
đổi của các nguồn vốn và các