Tóm tắt
Các di tích thờ Mẫu ở Hà Nội là sự phản ánh đậm nét môi trường tự nhiên, lịch sử và xã hội của Hà
Nội với những đặc điểm: về vị trí thường gắn với môi trường tự nhiên ao, hồ hoặc sông nước; nhiều
sự tích gắn với lịch sử kinh đô; về đối tượng thờ phụng thì đa dạng, cho thấy sự giao lưu và tiếp biến
văn hóa của vùng đất. Theo thời gian, cùng với sự tác động của nhiều yếu tố mà các di tích thờ Mẫu ở
nội thành Hà Nội cũng có nhiều biến đổi, chẳng hạn như bị thu hẹp về không gian do sức ép của quỹ
đất bởi quá trình đô thị hóa; chưa có sự thống nhất về lai lịch các vị thần cũng như cách thức quản lý
thực hành nghi lễ Từ đó đặt ra vấn đề cần thiết bảo tồn và phát huy giá trị các di tích thờ Mẫu ở nội
thành Hà Nội hiện nay như: tạo dựng bản sắc; trả lại không gian cảnh quan cho các di tích; đào tạo
đội ngũ quản lý, xây dựng lại lai lịch và xây dựng quy chế thực hành nghi lễ phù hợp cho các di tích.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Di tích thờ mẫu ở nội thành Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5Số 28 - Tháng 6 - 2019
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
DI TÍCH THỜ MẪU Ở NỘI THÀNH HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ YÊN
Tóm tắt
Các di tích thờ Mẫu ở Hà Nội là sự phản ánh đậm nét môi trường tự nhiên, lịch sử và xã hội của Hà
Nội với những đặc điểm: về vị trí thường gắn với môi trường tự nhiên ao, hồ hoặc sông nước; nhiều
sự tích gắn với lịch sử kinh đô; về đối tượng thờ phụng thì đa dạng, cho thấy sự giao lưu và tiếp biến
văn hóa của vùng đất. Theo thời gian, cùng với sự tác động của nhiều yếu tố mà các di tích thờ Mẫu ở
nội thành Hà Nội cũng có nhiều biến đổi, chẳng hạn như bị thu hẹp về không gian do sức ép của quỹ
đất bởi quá trình đô thị hóa; chưa có sự thống nhất về lai lịch các vị thần cũng như cách thức quản lý
thực hành nghi lễ Từ đó đặt ra vấn đề cần thiết bảo tồn và phát huy giá trị các di tích thờ Mẫu ở nội
thành Hà Nội hiện nay như: tạo dựng bản sắc; trả lại không gian cảnh quan cho các di tích; đào tạo
đội ngũ quản lý, xây dựng lại lai lịch và xây dựng quy chế thực hành nghi lễ phù hợp cho các di tích.
Từ khóa: Di tích, thờ Mẫu, nội thành Hà Nội
Abstract
The relics of Mother Goddesses worship in Hanoi are deep reflection of Hanoi’s natural, historical
and social environment with its characteristics: the location is often associated with the natural
environment of ponds, lakes or rivers; many legends are closely connected with the history of the
capital; The objects of worship are diverse, showing the cultural exchange and acculturation of the
land. Over time, along with the impact of many factors that the relics of Mother Goddesses worship
in the inner area of Hanoi also have many changes, such as being narrowed in space due to the
pressure of the land fund by the urbanization process; There is no unification on the origin of the
goddesses as well as the way to manage the ritual practice... From these points, it is necessary to
preserve and promote the value of the relics of Mother Goddesses in the inner area of Hanoi today
as: creating identity; recreating the landscape space to the monuments; training the management
team, rebuilding the origins and building regulations for appropriate ritual practices at those relics.
Keywords: Relics, Worship of Mother Goddesses, inner area of Hanoi
1. Khái quát một số đặc điểm của các di tích
thờ Mẫu ở nội thành Hà Nội
Là vùng đất địa linh nhân kiệt, Hà Nội từ lâu đời đã là trung tâm văn hóa chính trị của cả nước nên tín ngưỡng
thờ Mẫu của Hà Nội cũng mang những đặc
điểm riêng phản ánh môi trường tự nhiên và
lịch sử, xã hội của vùng đất này. Điều đó cũng
được thể hiện qua sự đa dạng về di tích thờ
Mẫu ở nội thành Hà Nội. Nhìn một cách tổng
thể, các di tích thờ Mẫu ở nội thành Hà Nội có
những đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, các di tích thờ Mẫu ở nội thành
Hà Nội thường gắn với môi trường tự nhiên ao,
hồ hoặc sông nước vốn là đặc điểm nổi bật của
môi trường tự nhiên Hà Nội. Điển hình là sự
hiện diện của hai ngôi đền thờ Mẫu Liễu Hạnh
nổi tiếng của Hà Nội hiện nay là phủ Tây Hồ
ở hồ Tây và đền Bà Kiệu ở hồ Hoàn Kiếm. Sự
có mặt của hai ngôi đền ở liền kề hai hồ nước
linh thiêng của Hà Nội đã góp phần làm nên
vẻ đẹp vừa nên thơ vừa cổ kính mang bản sắc
riêng của Hà Nội. Ngoài ra còn có đền An Thọ
(phường Yên Phụ) và đền Sòng Trà (phường
Số 28 - Tháng 6 - 20196
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Thụy Khuê) ở cạnh hồ Tây, đền Thủy Trung
Tiên (đền Cẩu Nhi) ở hồ Trúc Bạch, đền Ghềnh
cạnh sông Hồng...
Mối liên hệ với thủy thần còn thể hiện qua
tục thờ Hạo Nương, tương truyền là cô gái
sống bên hồ Tây, người đã sinh ra hoàng tử
Linh Lang - con vua Lý, có công chống giặc
Tống, khi chết hóa thành giao long trườn
xuống hồ [5, tr.196]. Hạo Nương được phối
thờ cùng với Đức Linh Lang trong hệ thống
hàng trăm ngôi đền thờ Đức Linh Lang dọc
theo dòng sông Hồng1.
Thứ hai, các di tích thờ Mẫu ở nội thành
Hà Nội có liên quan tới lịch sử kinh đô của Hà
Nội. Chẳng hạn, trừ đền Quán Thánh ra thì ba
ngôi đền còn lại của Tứ trấn Thăng Long đều
thờ Mẫu: đền Voi Phục thờ Hạo Nương, các
đền Bạch Mã và Kim Liên thờ Tam tòa Thánh
Mẫu của tín ngưỡng Tứ phủ. Ở đền Kim Liên,
vào dịp lễ hội hàng năm còn có sự tham gia
đám rước của hội Quần tiên là các ông đồng,
bà cốt trong trang phục các vị thánh của tín
ngưỡng Tứ phủ như: Chúa Thượng Ngàn, ông
Hoàng Ba, ông Hoàng Mười,... như là sự biểu
dương cho sự có mặt của các vị thần linh của
tín ngưỡng Tứ phủ ở di tích này. Ngoài ra, đền
Thủy Trung Tiên được xây dựng gắn với sự
tích chọn đất đóng đô Thăng Long của vua Lý
Công Uẩn [11].
Sự có mặt của ngôi vị Mẫu trong điện thần
của Tứ trấn một mặt chứng tỏ vị thế quan
trọng của Mẫu tại các ngôi đền thiêng của Hà
Nội, mặt khác cho thấy thờ Mẫu với tâm thức
nguồn cội cũng là một phần không thể thiếu
trong hệ thống tín ngưỡng của người Hà Nội.
Thứ ba, các di tích thờ Mẫu ở nội thành Hà
Nội có đối tượng thờ phụng khá đa dạng, phản
ánh lịch sử, văn hóa, xã hội của vùng đất. Có thể
tạm phân chia thành các nhóm đối tượng thờ
phụng chính sau đây:
* Nhóm di tích thờ Mẫu gắn nhân duyên
kỳ ngộ giữa người và tiên. Đây là một nét đặc
trưng cho lịch sử giao lưu văn hóa tín ngưỡng
của Hà Nội. Tiêu biểu cho nhóm di tích này là
chùa Ngọc Hồ hay chùa Bà Ngô (số 128 phố
Nguyễn Khuyến) và Bích Câu Đạo quán (số 14
phố Cát Linh) là hai di tích thờ Mẫu nổi tiếng
đầu thế kỷ XX. Chùa Ngọc Hồ được xây dựng
từ đời vua Lý Nhân Tông (khoảng năm 1127
- 1128), trong điện Mẫu có tượng Lê Thánh
Tông ngồi trên ngai rồng liên quan đến tích
vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) một lần đến
chùa xướng họa thơ ca với một nàng tiên, sau
vua cho xây dựng lầu Vọng Tiên ở chùa để ghi
nhớ [1]. Ngôi chùa này cũng là bối cảnh cho
câu chuyện chàng học trò nghèo Tú Uyên gặp
nàng tiên Giáng Kiều trong truyện thơ “Bích
Câu kỳ ngộ” để rồi từ đó hình thành nên Bích
Câu Đạo quán thờ thần tiên, theo thời gian
chuyển sang phối thờ Phật, Mẫu.
Ngoài ra, tương truyền phủ Tây Hồ được
hình thành gắn với truyền thuyết Mẫu Liễu
Hạnh hiển linh lần hai xướng họa thơ văn
cùng Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan trong vai
cô chủ quán tửu lâu Tây Hồ phong nguyệt (lần
thứ nhất đàm đạo tại xứ Lạng). Ít ngày sau,
Trạng Bùng quay lại đã thấy biến mất cả người
lẫn quán, chỉ còn hồ nước mênh mông, dân
chúng theo tích mà lập phủ thờ. Cũng có tích
kể rằng để nguôi ngoai nỗi nhớ, Trạng Bùng
Phùng Khắc Khoan đã cho lập đền thờ người
tri âm [6].
Sự xuất hiện các di tích thờ Mẫu gắn với
các cuộc tương phùng đàm đạo thơ văn giữa
người và tiên chính là phản ánh các cuộc gặp
gỡ giao lưu của tinh hoa văn hóa đất kinh kỳ
trong lịch sử mà hồ Tây với vẻ đẹp nên thơ,
trữ tình chính là bối cảnh lý tưởng cho sự gặp
gỡ đó. Thực tế, hồ Tây còn lưu truyền cuộc hội
ngộ đối đáp thơ ca gắn với cuộc tình nổi tiếng
của Nguyễn Trãi (đại diện cho nhà Nho, văn
hóa bác học) với cô gái trẻ Thị Lộ (đại diện cho
văn hóa dân gian) đến từ quê lúa Thái Bình. Có
lẽ vì vậy mà ở thành phố Lạng Sơn có ngôi đền
thờ vọng Mẫu Tây Hồ, tức thờ Mẫu Liễu Hạnh
gắn với sự tích hiển thánh ở Tây Hồ như một
cách phân biệt với Mẫu Liễu Hạnh hiển thánh
ở phố Cát và Sòng Sơn.
* Nhóm di tích thờ công chúa và cung phi,
hoàng hậu của các triều đại. Đền Voi Phục (ở cả
Thủ Lệ và Thụy Khuê) thờ bà mẹ sinh ra hoàng
tử Linh Lang con vua Lý. Đền An Thọ thờ công
chúa Hàn Sơn - người được vua Đồng Khánh
7Số 28 - Tháng 6 - 2019
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
sắc phong là “Mẫu nghi thiên hạ” và hoàng
hậu Khâm Đức - mẹ đẻ của danh tướng, hoàng
tử đời Trần là Linh Lang đại vương [9]. Tương
truyền, đền Ghềnh thờ hoàng hậu Lê Ngọc
Hân - vợ vua Quang Trung, sự tích ngôi đền
gắn với số phận bi thương của hoàng hậu Lê
Ngọc Hân sau khi chết [7]. Ngày nay, phần lớn
các di tích này đều đã kết tập vào điện thờ của
tín ngưỡng Tứ phủ. Sự có mặt các Mẫu thuộc
hoàng cung trong điện thờ của tín ngưỡng Tứ
phủ là một tất yếu phản ánh đặc điểm vùng
đất kinh đô với sự đóng góp to lớn của các
công chúa, cung phi, hoàng hậu cho đất nước
qua các triều đại.
* Nhóm di tích thờ vọng Mẫu Liễu Hạnh
và các nữ thần ở các ngôi đền tại địa phương.
Chẳng hạn, căn cứ vào bài vị, điện thần và các
đạo sắc phong của đền Bà Kiệu (Hoàn Kiếm,
Hà Nội) cho thấy ngôi đền này thờ vọng Mẫu
Liễu Hạnh và tiên nữ Quỳnh Hoa, Quế Hoa ở
đền Phố Cát (huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh
Hóa). Hay như căn cứ vào tên gọi “Sòng Sơn
vọng từ”, còn gọi là đền Cô Chín Sòng Sơn (số
35 phố Tôn Đức Thắng, Hà Nội) thì ngôi đền
này thờ vọng Cô Chín đền Sòng Sơn (thị xã
Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Đó là chưa kể một
số điện thờ tư nhân cũng được xây dựng để
thờ vọng, chẳng hạn như đền Tiên La vọng từ
của thanh đồng N.T.K.L (Đại La, Hà Nội) thờ
vọng Mẫu Bát Nàn ở đền Tiên La (thuộc thôn
Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình)
Từ lâu đời Hà Nội vốn là nơi lập nghiệp của
người tứ xứ. Vì vậy, có nhiều lý do dẫn đến sự
xuất hiện các ngôi đền Mẫu thờ vọng ở Hà Nội,
trong đó một phần là do nhân duyên, nhưng
có lẽ một phần quan trọng là do các vị thần
địa phương cũng theo chân những người di
cư đến Hà Nội “lập nghiệp”.
2. Thực trạng các di tích thờ Mẫu ở nội
thành Hà Nội
Cũng như các di tích lịch sử - văn hóa khác
ở Hà Nội, theo thời gian, các di tích thờ Mẫu ở
nội thành Hà Nội cũng chịu tác động sâu sắc
bởi sự tác động của chiến tranh, của quá trình
đô thị hóa và các chủ trương chính sách của
Nhà nước về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, vấn
đề bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa truyền
thống... Từ đó dẫn đến những biểu hiện sau
đây:
2.1. Tình trạng bị lấn chiếm không gian
cảnh quan. Chịu sức ép của quỹ đất do quá
trình đô thị hóa từ trước đến nay nên chỉ trừ
một số ngôi đền lớn còn giữ lại được không
gian cảnh quan như phủ Tây Hồ, đền Voi Phục,
Bích Câu Đạo quán, còn thì phần lớn các di
tích thờ Mẫu ở nội thành Hà Nội đều bị thu
hẹp không gian do tình trạng bị lấn chiếm.
Điển hình là đền An Thọ, một ngôi đền đẹp
nằm sát mép hồ Tây với nhiều di vật quý hiếm
nhưng ngày nay dường như bị lọt thỏm trong
khu dân cư. Đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm
cũng trong tình trạng tương tự. Riêng đền Bà
Kiệu ở cạnh hồ Hoàn Kiếm thì khi người Pháp
làm con đường “Boulevard Francis Garnier”
vào năm 1891 (sau năm 1954 là đường Đinh
Tiên Hoàng) đã cắt ngang khu đền ra làm đôi:
cổng tam quan nằm ở phía tây đường, tức
phía bờ hồ, còn nhà đại bái, phương đình và
hậu cung thì nằm bên phía đông đường. Hoặc
như lầu Vọng Tiên ở chùa Bà Ngô cũng bị dỡ
khi vua Gia Long cho phá thành Thăng Long
xây lại và được chuyển về số 120B phố Hàng
Bông thành đền Vọng Tiên. Đặc biệt đền Sòng
Trà ở khu dân cư số 5 phường Thụy Khuê từng
bị trưng dụng làm trường học, nay xây dựng
nhà văn hóa của khu dân cư trên nền di tích.
Nhìn chung, những di tích được xếp hạng di
tích lịch sử và được Nhà nước đầu tư đền bù để
giải phóng mặt bằng thì mới giữ được không
gian. Chẳng hạn, Bích Câu Đạo quán được xếp
hạng Di tích lịch sử văn hoá quốc gia năm 1990.
Năm 2011 - 2012 quán đã được Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội cho trùng tu với kinh
phí khoảng 43 tỷ đồng, hơn một nửa trong đó
dành cho giải toả các hộ lấn chiếm [2].
2.2. Sự thiếu thống nhất của sự tích, thần
tích, sắc phong. Cũng như các di tích khác,
do sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau,
theo thời gian phần lớn các di tích thờ Mẫu
ở nội thành Hà Nội đều có sự tích hợp nhiều
lớp văn hóa và tín ngưỡng khác nhau, điều
Số 28 - Tháng 6 - 20198
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đó dẫn đến có sự tam sao thất bản về sự tích,
thần tích và sự lẫn lộn về sắc phong ở các di
tích. Điển hình là đền Sòng Trà ở phường Thụy
Khuê, ngoài di tích còn sót lại là nền ngôi đền,
nay là nhà văn hóa của khu dân cư số 5, thì
người ta không biết gì thêm về lai lịch ngôi
đền. Về niên đại xuất hiện phủ Tây Hồ cũng
còn nhiều bàn cãi. Có thể do căn cứ vào truyền
thuyết Mẫu Liễu Hạnh gặp Trạng Bùng Phùng
Khắc Khoan ở Tây Hồ trong tác phẩm “Vân
Cát thần nữ” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm vào thế
kỷ XVIII [10, tr.445-469] mà người đời sau đã
mặc nhiên cho rằng phủ Tây Hồ xuất hiện vào
thế kỷ XVI. Tuy nhiên trong các sách nói về di
tích của Thăng Long - Hà Nội cổ ra đời đầu thế
kỷ XX như Thăng Long cổ tích khảo, Long Biên
bách nhị vịnh, Tây Hồ chí, Hà Thành linh tích cổ
lục,... đều không ghi chép về di tích này. Còn
theo khảo sát tư liệu của các nhà nghiên cứu
thì phủ Tây Hồ lúc đầu chỉ là một ngôi đền
nhỏ của làng Tây Hồ, phỏng đoán được xây
cất vào khoảng cuối thế kỷ XIX, năm 1947 bị
Pháp đốt phá, năm 1952 được trùng tu lại [3;
4]. Tuy nhiên, theo chúng tôi, không thể loại
trừ trường hợp trước đó nó đã từng tồn tại
dưới dạng một am thờ nhỏ và được tạo dựng
dần theo thời gian, liên quan đến tích Tây Hồ
hiển thánh của Mẫu Liễu Hạnh. Tương tự, sắc
phong của phủ Tây Hồ theo phân tích của tác
giả Chu Xuân Giao “ chỉ là sắc phong chính
thức của các điểm tín ngưỡng khác (Phủ Dày,
Phố Cát) mà người làng Tây Hồ hay ai đó liên
quan đi sao về” [3, tr.63-74]. Hay như, mặc dù
đền Thủy Trung Tiên đã được đầu tư xây dựng
lại nhưng cuộc tranh cãi “Có hay không sự tồn
tại của đền Cẩu Nhi và nếu có thì trong lịch sử
đền này thờ thần Cẩu Nhi, thờ Mẫu Thoải hay
thờ Cá” thì cho đến nay vẫn đang còn bỏ ngỏ
[8]. Còn đối với đền Ghềnh, mặc dù truyền
thuyết dân gian kể là gắn với việc thờ phụng
công chúa Ngọc Hân nhưng dường như sự
tích này vẫn chưa được chính thức hóa Vài
nét cho thấy, cũng như ở nhiều địa phương
khác, vấn đề chính danh hóa sự tích thần ở các
di tích thờ Mẫu trong nội thành Hà Nội cũng
đang là một vấn đề cần thiết phải đặt ra.
2.3. Sự thiếu thống nhất trong bài trí điện
thờ và ban thờ Mẫu. Phần lớn các ngôi đền
hoặc gian đền thờ Mẫu ở Hà Nội đều được
trùng tu xây dựng sau những năm 1990 trở lại
đây, việc sắp đặt bài trí điện thờ Mẫu ở các di
tích chưa thật thống nhất, còn tùy hứng theo
sự công đức hoặc theo sự phán bảo chủ quan
của các ông bà thầy cúng. Chẳng hạn, một số
thành viên của Ban quản lý di tích làng Xuân
Đỉnh còn rất băn khoăn về cách sắp đặt khá
tùy tiện các pho tượng trong ngôi đền Mẫu
mới trùng tu xây dựng lại của làng. Ngoài ra,
do hạn chế về không gian nên nhiều ngôi đền
có xu hướng tích hợp các ban thờ trong gian
thờ Mẫu. Chẳng hạn, nhà Mẫu ở đền Voi Phục
được xây mới vào năm 2010 là sự tích hợp
các ban thờ Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và
Mẫu Hạo Nương, mẹ của Đức thần Linh Lang.
Ngược lại, ở đền Bạch Mã, ban thờ Mẫu chỉ là
một khán nhỏ với bộ ba Tam tòa Thánh Mẫu.
2.4. Sự thiếu thống nhất trong việc đưa
ra các quy ước trong thực hành nghi lễ. Do
đặc thù riêng của từng ngôi đền mà việc quy
ước trong thực hành nghi lễ ở các di tích thờ
Mẫu ở nội thành Hà Nội hiện nay không giống
nhau. Bên cạnh các ngôi đền thực hiện khá
tốt các quy ước cụ thể trong thực hành nghi
lễ như phủ Tây Hồ thì vẫn còn không ít các
ngôi đền vẫn nặng về mục đích hầu đồng, đốt
nhiều hàng mã.
3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc bảo tồn,
phát huy các di tích thờ Mẫu ở nội thành Hà
Nội hiện nay
Từ đặc điểm và thực trạng các di tích thờ
Mẫu ở nội thành Hà Nội cho thấy việc bảo tồn,
phát huy các di tích này cần đi vào những vấn
đề cụ thể sau đây:
3.1. Vấn đề tạo dựng bản sắc cho tín
ngưỡng thờ Mẫu ở nội thành Hà Nội. Công
việc này hoàn toàn có thể thực hiện được dựa
trên việc xem xét nguồn gốc và đặc điểm của
các di tích. Tôi cho rằng nổi bật trong hệ thống
các di tích thờ Mẫu ở nội thành Hà Nội là chuỗi
các ngôi đền gắn với sự tích tương phùng giữa
người và thần tiên qua các triều đại lịch sử. Đó
là di tích đền Bà Ngô được xây dựng từ thời Lý
9Số 28 - Tháng 6 - 2019
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
gắn với sự tích vua Lê Thánh Tông gặp gỡ và
đối họa thơ ca với một nàng tiên xinh đẹp để
cho ra đời Vọng tiên lâu. Đó là Bích Câu Đạo
quán gắn với cuộc tình lãng mạn giữa người và
tiên của anh học trò nghèo Tú Uyên và Giáng
Kiều thế kỷ XV. Đó là phủ Tây Hồ được hình
thành từ sự tích xướng họa thơ ca giữa Phùng
Khắc Khoan - một nhà Nho, một vị quan nổi
tiếng với mẫu Liễu Hạnh ở thế kỷ XVI. Như vậy
là cả Vua - Quan và Học trò (đại diện cho tầng
lớp trí thức Nho giáo) qua các thời kỳ đều có
mối liên hệ mật thiết với Đạo giáo. Chính cuộc
giao lưu gặp gỡ giữa Nho giáo và Đạo giáo ở
đất kinh kỳ đã được biểu tượng hóa thành các
cuộc tình lãng mạn giữa người và tiên rồi để
lại dấu tích là các ngôi đền thờ nổi tiếng trong
nhân gian như vậy. Đây là một nét riêng đặc
sắc trong sự hình thành các di tích thờ Mẫu
của Hà Nội. Theo ghi chép của Nguyễn Văn
Huyên, cho đến hết thập niên 1940 thì đạo
quán Bích Câu, chùa Ngọc Hồ cùng với Sòng
Sơn vọng từ, đền Văn Tân là những nơi nổi
tiếng nhất ở Hà Nội... Còn theo tác giả Nguyễn
Vinh Phúc thì ở thời điểm năm 2004 “nổi tiếng
nhất Hà Nội là phủ Tây Hồ” [4]. Đó chính là cơ
sở để chúng ta có thể kết nối tạo dựng nên
bản sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu ở nội thành
Hà Nội thông qua nhóm di tích này.
Việc tạo dựng bản sắc cần được bắt đầu
bằng việc làm rõ về mặt lý luận, ý nghĩa biểu
tượng của tín ngưỡng thờ Mẫu... Tiếp đến là
thống nhất việc xây dựng lại lai lịch cho các
di tích trong sự kết nối giữa các di tích về mặt
không gian và thời gian, từ đó thiết kế lại điện
thần, xây dựng quy chế thực hành nghi lễ, kể
cả xây dựng tuyến du lịch tâm linh hoặc tham
quan vãng cảnh cho các du khách.
3.2. Vấn đề trả lại không gian cảnh quan
cho các ngôi đền. Đây là vấn đề thời sự lâu nay
đã thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo,
của báo giới,... nhưng để hiệu quả hơn nữa có
lẽ Nhà nước cần phải có những chủ trương
chính sách kiên quyết và cụ thể hơn nữa đối
với từng loại hình di tích, nhất là với những di
tích có môi trường cảnh quan gắn với khu vực
hồ Tây như đền An Thọ, đền Sòng Trà... Bởi lẽ,
ngoài nhu cầu tâm linh thì việc lấy lại không
gian và cảnh quan cho các ngôi đền thờ Mẫu ở
khu vực hồ Tây còn góp phần vào việc bảo vệ
môi trường, chống lại lấn chiếm không gian
hồ và đặc biệt là phục vụ nhu cầu tham quan
du lịch, vãng cảnh cho nhiều đối tượng du
khách khác nhau.
3.3. Vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ quản
lý di tích. Để xứng tầm với vị thế là các di tích
thờ Mẫu của Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn
hiến, về lâu dài rất cần quan tâm đến vấn đề
đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý di tích nói
chung trong đó có các di tích thờ Mẫu. Đi vào
cụ thể, cần có sự bàn bạc phối hợp giữa các bộ
phận liên quan để phân cấp quản lý, nhưng
nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý di tích cần
được đào tạo thông qua trường lớp, có sự hiểu
biết về phong tục tập quán, tín ngưỡng để
chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh
liên quan đến di tích và các hoạt động cũng
như thực hành nghi lễ tại di tích.
3.4. Vấn đề xây dựng lai lịch thống nhất
cho các ngôi đền. Như đã trình bày, phần lớn
các di tích thờ Mẫu ở nội thành Hà Nội đều
được hình thành từ lâu đời gắn với lịch sử hình
thành và phát triển của kinh đô Thăng Long
- Hà Nội. Trong quá trình đó, do sự tác động
của nhiều yếu tố mà diện mạo di tích thờ Mẫu
ở nội thành Hà Nội có nhiều biến đổi và tích
hợp vào nó nhiều yếu tố giao lưu văn hóa tín
ngưỡng khác nhau. Vì vậy, việc thống nhất để
đi đến xây dựng lại lai lịch cho các ngôi đền
cần phải dựa vào đặc điểm này thì mới làm
rõ được nguồn gốc, xuất xứ cũng như giá trị
của các ngôi đền. Ví dụ, đền Thủy Trung Tiên
gắn với lớp di tích ban đầu thờ Cẩu Nhi là một
thực tế khách quan rất cần được công nhận;
hay như đã đến lúc cần trả lại đúng vị thế thờ
công chúa Lê Ngọc Hân cho đền Ghềnh... Có
như vậy mới làm rõ được giá trị lịch sử của
ngôi đền cũng như tôn vinh được đối tượng
thờ phụng của ngôi đền.
3.5. Vấn đề xây dựng quy chế thực hành
nghi lễ. Trên tinh thần chung của việc bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa tín ngưỡng thờ
Mẫu hiện nay, c