Tuồng Huế, đã có nhiều cuộc hội thảo với sự tham gia của
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nghệ sĩ lừng danh, tất cả đều đặt
ra câu hỏi làm thế nào để bảo tồn và phát huy loại hình nghệ
thuật đã một thời được xem là quốc kịch dưới triều nhà
Nguyễn. Không chọn cách khôi phục các kịch bản, trình thức
biểu diễn, tuyển chọn diễn viên chúng tôi đi tìm một ngôn
ngữ tuồng với hai câu thơ được khắc họa trên khuôn mặt của
người diễn viên:
11 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đi tìm ngôn ngữ trong mặt nạ tuồng Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đi tìm ngôn ngữ trong
mặt nạ tuồng Huế
Nguồn: Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế
Các diễn viên tuồng Đồng Ấu dưới triều Nguyễn
Tuồng Huế, đã có nhiều cuộc hội thảo với sự tham gia của
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nghệ sĩ lừng danh, tất cả đều đặt
ra câu hỏi làm thế nào để bảo tồn và phát huy loại hình nghệ
thuật đã một thời được xem là quốc kịch dưới triều nhà
Nguyễn. Không chọn cách khôi phục các kịch bản, trình thức
biểu diễn, tuyển chọn diễn viên chúng tôi đi tìm một ngôn
ngữ tuồng với hai câu thơ được khắc họa trên khuôn mặt của
người diễn viên:
Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc
Đứa nịnh râu đen mấy sợi còi.
Vì răng diễn viên tuổng phải biết làm họa sĩ?
Tết Tân Mão (2011), alô cho đạo diễn La Hùng (con trai
nghệ nhân La Cháu – nghệ nhân tuồng cung đình cuối cùng
của triều Nguyễn đã từ giã cuộc đời vào ngày 23/11/2011)
được biết nghệ nhân La Cháu hiện đang ở ăn tết với người
cháu nội ở đường Đặng Huy Trứ (thành phố Huế) tôi vội
vàng chạy đến, trước là để thăm cụ, sau là để giải tỏa cái sự
bức bối đang chực chờ muốn nổ tung trong đầu tôi, vì răng
diễn viên tuồng phải biết làm họa sĩ? Như vậy là sẽ mâu
thuẫn với câu “thanh, sắc, thục, khí, thần” mà các cụ nghệ
nhân xưa vẫn thường áp dụng khi tuyển diễn viên đào tạo
trong các lớp Đồng Ấu của chốn cung đình.
Gặp cụ, làm thủ tục thăm hỏi sức khỏe người già nhân ngày
tết, xong đâu đấy, tôi lân la bắt chuyện.
- Ôn (ông) ơi, ngày xưa khi còn làm diễn viên trong cung
đình ông có học vẽ không ôn? Nhíu đôi lông mày, cụ nhìn tôi
nghi ngờ.
- Thằng ni hỏi lạ chưa tề, tao làm diễn viên tuồng chứ có phải
họa sĩ mô mà mi nói chuyện vẽ vời. Muốn hỏi chuyện vẽ thì
mi đi tìm ông Bửu Chỉ mà hỏi, chứ răng hỏi tao.
- Dạ, con hỏi chuyện ôn học vẽ là vẽ mặt nạ tuồng chứ không
phải vẽ tranh ảnh. Như nhận ra chủ đề mà tôi muốn tìm hiểu,
cụ nói ngay.
- Hèn chi tao thấy mi quen quen.
Và cũng không cần vòng vo, cụ cho biết, trong nghệ thuật hát
tuồng, chiếc mặt nạ là đạo cụ sân khấu quan trọng bậc nhất
của loại hình nghệ thuật này. Có thể nói, mặt nạ là một phần
tạo nên cái hồn, cái chất của nghệ thuật tuồng. Dưới ánh đèn
sân khấu tuồng, màu sắc dùng trong mặt nạ phải thật đậm,
đường nét phải thật rõ, để khắc hoạ cá tính của nhân vật, và
nhất là để tăng sự biểu đạt của khuôn mặt diễn viên. Mỗi mặt
nạ tuồng tự nó nói lên lòng trung hiếu, lòng nhân ái, tinh thần
dũng cảm. Người diễn viên tuồng ngoài việc phải biết hát
hay, múa đẹp, còn phải biết làm một họa sĩ để tự kẻ mặt nạ
nhân vật. Tuy vậy, một người diễn viên tuồng dù trình độ
nghề nghiệp có giỏi đến đâu cũng không thể nào nắm hết tất
cả, họ chỉ có thể vẽ được một số ít bộ mặt nạ nhân vật nhất
định nào đó mà mình thường đảm nhiệm, cụ cho biết thêm.
Theo NSƯT La Cẩm Vân, trước khi biểu diễn, mỗi diễn viên
tuồng phải tự hóa trang cho mình bằng cách cảm nhận về tính
cách và thân phận của nhân vật, trên nền tảng những quy
định chuẩn mực về mặt nạ cho mỗi loại nhân vật. Nhưng khó
nhất là vẽ đôi mắt, bởi đây là nơi thể hiện tính cách nhân vật
rõ nét nhất. Dù hóa trang theo kiểu mặt nào thì có một điểm
chung là vùng sát xung quanh đôi mắt phải được để tự nhiên.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, đây là dấu vết của việc đeo
mặt nạ ngày trước, người khác lại giải thích, trong hát tuồng,
con mắt của diễn viên cũng phải tích cực diễn xuất, nên phải
chừa trống như thế mới thấy được “cái thần” của đôi mắt.
Màu sắc, đường nét và tính cách nhân vật
Mặt nạ tuồng Huế với ba tông màu chủ đạo là đen – đỏ -
trắng và thêm một số màu phụ trợ như: xanh, xám Mỗi
tông màu gắn với từng mô típ nhân vật cụ thể, như: mặt đen -
đại diện cho sự rắn chắc; mặt trắng - vẽ sự bạc bẽo; mặt mốc
– dành cho kẻ xu nịnh, phản trắc; mặt rằn – kẻ tướng mạo
xấu xí, tính tình nóng nảy; mặt đỏ - tỏ rõ sự trung can nghĩa
khí...
Đã từng hóa thân nhiều vai diễn tuồng từ khi còn là diễn viên
lớp Đồng Ấu, nghệ nhân La Nguyên cho biết, khi vẽ mặt nạ
tuồng màu sắc ngoài những quy định chung về tính cách và
xuất xứ của nhân vật, nó còn có sự thay đổi, biến chuyển tùy
thời điểm, tùy tình thế. Ví dụ như những nhân vật sống ở
miền sông nước hay ở biển đều được goi là Kép sông, Kép
nước chứ không gọi là Kép biển. Tuy ở sông hay ở biển đều
là kép nước nhưng nhân vật ở biển thì phải kẻ mặt màu đỏ,
còn ở sông thì phải màu xám. Theo giải thích, nhân vật ở
biển chịu nắng nên mặt phải màu đỏ, còn nhân vật sinh sống
gần sông, đôi khi, đôi lúc còn được ở chỗ râm, mát nên màu
da của nhân vật không thể giống như người miền biển được.
NSƯT La Cẩm Vân hóa trang mặt nạ tuồng Chung Vô Diệm
– trong vở tuồng Chung Vô Diệm.
Khi đã theo nghiệp học tuồng, các diễn viên đều phải theo
học vẽ mặt nạ. Trước tiên, bản thân người học phải tự nhớ, tự
học màu sắc và thứ tự, chi tiết các bước vẽ, rồi tự mày mò,
tìm tòi vẽ theo các vai mà các nghệ nhân đã vẽ. Người học
phải tự bắt chước chứ không được chỉ vẻ cụ thể phải làm như
thế nào, bắt đầu từ đâu. Nghệ nhân Huỳnh Văn Đức (Nhà
hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế) tâm sự: “Khi tôi
đóng vai Khương Linh Tá thì ông thầy vẽ cho tôi mặt
Khương Linh Tá. Tuy nó có thứ tự từng bước một, nhưng
thầy không chỉ cho là phải làm như thế nào, tôi phải tự mày
mò, tự học trước gương”.
Theo các nhà nghiên cứu về tuồng, mỗi mặt nạ tuồng khi
được vẽ đều mang tính cách điển hình, tính cách ấy theo
nhân vật đồng hành xuyên suốt từ đầu đến cuối vở diễn. Do
đó, các nét vẽ thường lấy từ các hình tượng như: long, ly,
quy, phượng tương ứng để tượng trưng cho vua, quan, sự
vĩnh cửu và vẻ đẹp sang quý. Riêng các họa tiết trên khuôn
mặt các nghệ nhân xưa căn cứ vào tướng số của con người
như: “Những người ti hí mắt lươn, trai thì trộm cướp, gái
buôn chồng người...”, “Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà
miệng rộng tan hoang cửa nhà” hay “Râu rìa, lông ngực đôi
bên, Chẳng phường phản bạn, cũng tên nịnh thần” Tính
cách của nhân vật liên quan đến loài vật cũng được thể hiện
rõ trên từng mặt nạ, như nhân vật Cáp Tô Văn trong vở Đàng
Chinh Đông ở thời nhà Đường (Trung Quốc), hiện thân của
Cáp Tô Văn là con rồng xanh nên khi hoá trang mặt nạ Cáp
Tô Văn cũng có những hoạ tiết tương tự như con rồng. Hoặc
vai Yêu cá trong vở Lý Phụng Đình, người xưa gọi Yêu cá là
cá hoá rồng nên mặt nạ vừa có sừng vừa có mang tượng
trưng như cá. Vai Chung Vô Diệm do kiếp nạn nên phải đội
lốt của quỷ Dạ Xoa nên mặt nạ của Chung Vô Diệm rất xấu
xí, nhưng khi thoát lốt sẽ trở thành một cô gái cực kỳ xinh
đẹp.
Theo ông Trương Tuấn Hải, giám đốc Nhà hát nghệ thuật
truyền thống cung đình Huế, về cơ bản, cách hoá trang mặt
nạ tuồng ở 3 miền Bắc - Trung - Nam đều giống nhau về việc
sử dụng các gam màu vào tính cách của nhân vật. Tuy nhiên,
do ảnh hưởng từ văn hóa đặc trưng của vùng miền, nên mỗi
nơi có cách thể hiện nét vẽ khác nhau. Riêng Huế, nơi nghệ
thuật tuồng đã đạt đến đỉnh cao, xứ sở của những con người
tế nhị có cuộc sống êm đềm bên dòng sông Hương, núi Ngự
nên các nét vẽ khi được khắc họa lên gương mặt của người
nghệ sỹ cũng nhẹ nhàng, thanh thoát hơn.
Sau hơn 1 năm điều tra, nghiên cứu về tuồng Huế nói chung
và về mặt nạ tuồng Huế nói riêng, chúng tôi đã tổng hợp,
thống kê được 100 mặt nạ tuồng tiêu biểu. Đây là nguồn tư
liệu khá cần thiết không những cho các nghệ sĩ đang diễn
tuồng, những người yêu thích bộ môn nghệ thuật tuồng mà
còn là vốn tài sản cho các thế hệ mai sau.