VNPT có hai công ty điện thoại di động trực thuộc là VMS
và GPC, nhìn chung hai công ty này chưa đáp ứng được nhu cầu
to lớn của thị trường. Phần lớn các khách hàng Việt Nam sử
dụng dịch vụ di động hiện nay chỉ mới yêu cầu về số lượng mà
chưa đòi hỏi gay gắt về chất lượng do họ chưa có con đường lựa
chọn khác dù họ chưa hài lòng với dịch vụ được cung cấp, vì các
nhà khai thác dịch vụ di động cạnh tranh với VNPT (SPT,
VIETEL, ETC ) chỉ mới bắt đầu.
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 1720 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dịch vụ điện thoại di động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 6: Dịch vụ điện thoại di
động
VNPT có hai công ty điện thoại di động trực thuộc là VMS
và GPC, nhìn chung hai công ty này chưa đáp ứng được nhu cầu
to lớn của thị trường. Phần lớn các khách hàng Việt Nam sử
dụng dịch vụ di động hiện nay chỉ mới yêu cầu về số lượng mà
chưa đòi hỏi gay gắt về chất lượng do họ chưa có con đường lựa
chọn khác dù họ chưa hài lòng với dịch vụ được cung cấp, vì các
nhà khai thác dịch vụ di động cạnh tranh với VNPT (SPT,
VIETEL, ETC… ) chỉ mới bắt đầu.
Từ số liệu điều tra chọn mẫu cho thấy độ hài lòng của
khách hàng với dịch vụ di động về mặt kỹ thuật như sau:
Bảng 2.9 Mức độ hài lòng của khách hàng về mặt kỹ thuật
với dịch vụ di động
Dịch vụ Mức độ dễ liên
lạc
Điểm bình
quân/7
Vùng phủ
sóng
Điểm bình
quân/7
Độ bảo mật
Điểm bình
quân/7
- Vinaphone
- Vinacrad &
dailly
- Mobiphone
- Mobicard &
4U
5,5
5,8
5,2
5,3
5,8
6,0
4,9
5,1
6,9
6,8
6,9
6,8
(Nguồn: Công ty Indochina Research.)
Tuy rằng hiện nay về mặt lý thuyết giữa Mobiphone và
Vinaphone có sự roaming (chuyển đổi sóng cho Mobiphone ở
những vùng sóng yếu), nhưng trên thực tế số vùng được roaming
chưa phải là nhiều, mà yếu tố vùng phủ sóng tốt cũng là một
trong những yếu tố quan trọng để khách hàng chọn lựa nhà cung
cấp.
Về hoá đơn và phương thức thanh toán, khách hàng đã
đánh giá các nhà khai thác VMS và GPC như sau:
Bảng 2.10 Mức độ hài lòng của khách hàng về mặt phục vụ
với dịch vụ di động
ST
T
Nội dung Mobiphone
Điểm bình
quân / 7
Vinaphone
Điểm bình
quân / 7
1
2
3
4
- Về nội dung & sự rõ ràng
của hoá đơn . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . .
- Sự chính xác hóa đơn . . .
. . . . .
- Thời gian thanh toán . . . .
. . . . .
- Phương thức thanh toán
dễ dàng
5,6
5,2
5,2
5,6
5,8
5,5
5,7
5,8
(Nguồn: Công ty Indochina Research.)
Bảng 2.11 Đánh giá của khách hàng về dịch vụ trả
tiền trước
ST
T
Nội dung Mobicard &
Mobi 4U
Điểm bình quân
/ 7
Vinacard &
Vinadailly
Điểm bình quân /
7
1 - Dễ dàng mua bộ trọn
gói ban đầu . . . . . . . . . . 6,6 6,4
2
3
4
5
. . . .
- Dễ hòa mạng . . . . . . .
. .
- Dễ mua card . . . . . . . .
.
- Dễ thực hiện & nhận
cuộc gọi .
- Sự chính xác trong
việc trừ cuớc . . . . . . . . .
. . . . .
6,5
6,3
5,8
5,6
6,5
6,1
6,2
5,8
(Nguồn: Công ty Indochina Research.)
2.2.2. Chất lượng phục vụ.
2.2.2.1. Mức độ đầy đủ (phong phú) của các phương tiện thông
tin
Như phần trên đã nói, chất lượng dịch vụ viễn thông không
chỉ là sự tuân thủ các đặc tính, quy luật của sản phẩm mà còn là
sự tuân thủ những yêu cầu do người sử dụng đặt ra. Một trong
những yêu cầu đó là mức độ đáp ứng nhu cầu, mức độ tiệm cận
các phương tiện thông tin đến khách hàng, thái độ phục vụ của
nhân viên viễn thông… Thực trạng về các chỉ tiêu này trong các
năm qua theo số liệu thống kê như sau:
* Mật độ mạng lưới, bán kính phục vụ của các bưu cục:
Bảng 2.12 Bán kính phục vụ bình quân một bưu cục
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tổng số BC 2.42
6
2.82
5
2.74
6
2.91
0
2.98
5
3.00
0
3.04
6
3.09
8
Sốdân
trên/1BC
29,6
7
25,9
0
27,0
6
25,9
3
25,6
6
25,8
8
25,8
3
25,7
3
Bkính phục 6,57 6,09 6,18 6,00 5,92 5,91 5,86 5,85
vụ bình
quân, km
(Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê Bưu điện 1996 –
1998 và tạp chí Thông tin khoa học kỹ thuật và kinh tế Bưu điện)
Hiện nay cả nước đã có 3.126 bưu cục.
Bảng 2.13 Mật độ điện thoại trên mạng viễn thông Việt
Nam
Năm 199
5
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Số máy
ĐT
(1.000
máy)
736,
5
1.107
,2
1.39
9,9
2.02
2,5
2.459
,1
3.28
6,4
4.43
0,0
5.515,
93
Dân số
(triệu
người)
71,9
9 73,16 74,3
75,4
6 76,6
77,6
4
78,6
8 79,71
Mật độ
/100dân 1,02 1,51 1,88 2,68 3,21 4,23 5,63 6,92
(Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê Bưu điện 1996 –
1998 và tạp chí Thông tin khoa học kỹ thuật và kinh tế Bưu điện)
- Về số lượng điểm bưu điện văn hoá xã: Tính đến tháng
3/2003 có 6.755 điểm được đầu tư, trong đó có 6.014 điểm đã đi
vào hoạt động.
* Về thời gian hoạt động của các điểm bưu cục và điểm
thông tin:
Trên mạng lưới viễn thông Việt nam hiện nay, giờ làm
việc của các bưu cục trung tâm thành phố là từ 6 giờ đến 21 giờ.
Các bưu cục ở những vùng sâu, vùng xa từ 7 giờ đến 19 giờ. Còn
các tổng đài thì hoạt động 24/24 kể cả tổng đài 1080 và 1088.
Để xem mức độ tiếp cận các dịch vụ viễn thông của Việt
nam ở mức độ nào, ta so sánh các chỉ tiêu này của Việt nam với
một số nước trên thế giới: (Xem phụ lục 2.1 và 2.2, trang 69)
2.2.2.2. Về công tác chăm sóc khách hàng của nhân viên bưu
điện:
Thời gian qua, các đơn vị viễn thông trực thuộc VNPT đã
thực hiện một số hoạt động chăm sóc khách hàng, nhưng các
hoạt động này còn mang tính tự phát, chưa thống nhất trên toàn
mạng lưới, chưa đầy đủ, do đó chưa có hiệu quả thực sự nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh của đơn vị.
Những đơn vị hoạt động có tính chất chủ yếu là chăm sóc
khách hàng gồm:
- Các tổng đài thuộc mạng cố định:
+ Đài 116: Giải đáp số điện thoại nội hạt, thủ tục lắp đặt,
đăng ký máy
+ Đài 119: Báo sửa chữa sự cố máy điện thoại
+ Đài 142, 143: Hổ trợ và giải đáp đàm thoại quốc tế
- Các tổng đài thuộc mạng di động:
+ Đài 145: Giải đáp cách tính cước, cách sử dụng máy điện
thoại di động thuộc mạng Mobiphone.
+ Đài 151: Giải đáp cách tính cước, cách sử dụng máy điện
thoại di động thuộc mạng Vinaphone.
Ngoài ra tất cả các nhân viên giao dịch tại ghi sê, các điện
thoại viên tại các đài 101 ( đăng ký đàm thoại trong nước), đài
108 (giải đáp thông tin kinh tế xã hội), đài 110 (đăng ký đàm
thoại quốc tế). . . ngoài nhiệm vụ chính là đáp ứng các yêu cầu
về nghiệp vụ thì cũng kèm theo nhiệm vụ không kém phần quan
trọng là chăm sóc khách hàng thật chu đáo khi khách hàng thắc
mắc về vấn đề sử dụng dịch vụ viễn thông.
Những nhận xét, đánh giá của khách hàng và các chuyên
gia về lĩnh vực chăm sóc khách hàng như sau:
. Về nhận thức của cán bộ quản lý với dịch vụ khách hàng:
Phần lớn cán bộ quản lý chưa thực sự coi trọng việc chăm
sóc khách hàng vì chưa thấy nguy cơ cạnh tranh mạnh hơn đang
đến gần mà chúng ta chỉ còn rất ít thời gian để chuẩn bị, vì thế
các cán bộ này chưa chú trọng đến việc chỉ đạo chăm sóc khách
hàng.
. Về đội ngũ nhân viên trực tiếp phục vụ khách hàng:
Có thể nói chúng ta chưa có một đội ngũ nhân viên đủ tiêu
chuẩn trong công tác chăm sóc khách hàng. Vẫn còn nhiều giao
dịch viên, điện thoại viên giao tiếp với khách hàng đều thiếu cả
kiến thức, kỹ năng và thái độ đúng đắn. Kết quả là khách hàng
còn kêu ca về thái độ lạnh nhạt, thờ ơ, cửa quyền, ban ơn của
giao dịch viên và điện thoại viên. Có thể nêu cụ thể như ở đài
116 và 119, vì khi khách hàng gọi vào các tổng đài này thì
không phải trả tiền cước cho nên các điện thoại viên ở các tổng
đài này còn nhiều người (chỉ có một số ít điện thoại ở tổng đài
này là biết xem “khách hàng là thượng đế”) còn thiếu niềm nở,
thái độ tiếp xúc là thái độ cửa quyền ban ơn. Thậm chí hầu như
chỉ có đài 116 ở thành phố Hồ Chí Minh là còn “hoạt động”
đúng chức năng, còn các đài 116 ở các tỉnh thì khi khách hàng
gọi đến họ đều chỉ là phải gọi sang đài 108 thì mới được giải
đáp. Các nhân viên này chỉ nhìn vào việc thu tiền trực tiếp, mà
không nghĩ xa hơn một chút là nếu họ chăm sóc khách hàng
thật chu đáo thì ngành bưu điện sẽ thu tiền được của khách hàng
ở nhiều dịch vụ khác, và ngành bưu điện thì không thể hạch
toán độc lập ở từng đơn vị riêng lẻ được, mà hạch toán phụ
thuộc lẫn nhau, có sự phân chia cước qua lại giữa các đơn vị vì
đặc điểm của ngành bưu điện là sản xuất dây chuyền, nhiều
người , nhiều đơn vị cùng tham gia vào quá trình sản xuất thì
mới tạo ra được sản phẩm.
Tại các ghi sê cũng có ghi sê phục vụ khách hàng rất tốt,
nhưng vẫn còn nhiều giao dịch viên ở một số ghisê trong giờ
phục vụ khách hàng nói chuyện riêng với các bạn đồng nghiệp,
khách hàng chờ lâu nhưng không được để ý, không tận tình giải
đáp thắc mắc của khác hàng. Giao tiếp bằng tiếng Anh còn hạn
chế.
Thông tin cho khách hàng không được cung cấp đầy đủ, rõ
ràng, khi khách hàng cần giải quyết một vấn đề gì thì bị đưa đẩy
lòng vòng, không biết ai là người chịu trách nhiệm giải quyết. . .
Hiện nay vấn đề khách hàng lớn (khách hàng thân thiết)
chưa được quan tâm, trong khi về dữ liệu này ngành bưu điện
thu thập còn dễ dàng hơn các hệ thống siêu thị nhiều, mà việc
ưu đãi cho các khách hàng lớn chúng ta thấy rõ là bên hệ thống
ngân hàng và siêu thị họ làm rất tốt