Tóm t t: Điển cố là những phương tiện văn học vốn
được dùng trong tất cả các thể loại văn chương cũng
như các dạng ngôn bản khác, thậm chí cả trong văn
hóa đại chúng và ngôn ngữ quảng cáo. Điển cố có thể
là các quy chiếu trực tiếp hay gián tiếp tới văn học, tới
các sự kiện lịch sử, thần thoại, tôn giáo, địa lý, quân
sự, tâm linh v.v. Bài viết này nghiên cứu bản chất của
điển cố sử dụng trong văn học phương Tây và Việt
Nam, nhấn mạnh khảo sát đối chiếu các bình diện
ngôn ngữ, văn học, lịch sử, tôn giáo của điển cố để
giúp người học hiểu các chức năng quan trọng trong
biểu đạt tư tưởng.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 453 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điển cố - Định nghĩa, đối chiếu văn hóa và một số gợi ý giảng dạy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng
12
ĐIỂN CỐ - ĐỊNH NGHĨA, ĐỐI CHIẾU VĂN HÓA
VÀ MỘT SỐ GỢI Ý GIẢNG DẠY
Nguyn Văn Chin
Trường Đại học Hà Nội
Tóm t
t: Điển cố là những phương tiện văn học vốn
được dùng trong tất cả các thể loại văn chương cũng
như các dạng ngôn bản khác, thậm chí cả trong văn
hóa đại chúng và ngôn ngữ quảng cáo. Điển cố có thể
là các quy chiếu trực tiếp hay gián tiếp tới văn học, tới
các sự kiện lịch sử, thần thoại, tôn giáo, địa lý, quân
sự, tâm linh v.v.. Bài viết này nghiên cứu bản chất của
điển cố sử dụng trong văn học phương Tây và Việt
Nam, nhấn mạnh khảo sát đối chiếu các bình diện
ngôn ngữ, văn học, lịch sử, tôn giáo của điển cố để
giúp người học hiểu các chức năng quan trọng trong
biểu đạt tư tưởng.
Việc điển cố Việt Nam không hiện diện trong văn
học phương Tây có thể làm cho nghiên cứu này có ý
nghĩa cần thiết hơn cho thụ đắc điển cố ở nước ngoài
cũng như ở Việt Nam. Những khác biệt và tương đồng
trong cấu trúc ngữ nghĩa của điển cố được làm rõ
nhằm chứng minh rằng điển cố không phải là thành
ngữ tuy hai khái niệm này tương đối giống nhau ở vài
nét. Một số bối cảnh lịch sử hay tiến trình phát triển văn
học có thể tạo ra một vài điển cố dường như là tương
đồng trong cả hai hệ thống điển cố phương Tây và Việt
Nam, nhưng đó chỉ là hãn hữu và chúng chỉ gần nhau
ở nghĩa bóng mà thôi. Các dữ liệu thu được từ nghiên
cứu đối chiếu có thể hữu ích dạy ngoại ngữ. Điển cố có
thể là những minh họa tốt cho các khóa trình ngôn ngữ
học văn bản, phân tích diễn ngôn và ngữ dụng học.
Ngoài ra, các đơn vị điển cố hỗ trợ giảng viên lý giải
một số vấn đề phức tạp trong từ vựng học hay ngữ
nghĩa học. Cách tiếp cận đối chiếu trong khảo sát điển
cố giúp luận giải các nếp tư duy, các đặc trưng lịch sử,
văn hóa và văn học trong những nền văn minh phương
Đông và phương Tây.
Abstract: Allusions are the literary devices used in
all genres of literature and different kinds of reading,
even in pop culture or in advertising etc.The allusions
might be direct or indirect references to literary,
historical, mythical, religious, geographical, military,
spiritual events. This research paper concerns an
investigation of the nature of allusions that are used
particularly in Western and Vietnamese literature. The
paper emphasis is placed upon contrastive study of
linguistic, literary, historical, religious aspects of
Western and Vietnamese allusions, which helps people
which helps people to understand their important
functions of expressing human thoughts.
That vietnamese allusions have not passed into
western languages could make this study become
more necessary for the acquisition of allusions in
Western countries and Vietnam.The differences and
similarities in semantic structure of allusions are found
out in order to prove that allusion are not idioms,
though those lexical units are relatively similar in
several features.Some contexts of history or
development of literature could form some units that
seem to be equivalents in the Western and Vietnamese
systems of allusions, but practically they are rarely
seen, so allusion counterparts that appear in the two
systems are known in various figurative sense only.The
data acquired from contrastive analysis are used to
make some real suggestions helpful in teaching
languages. The allusions could be good illustrations for
the courses of linguistics of texts, discourse analysis
and linguistic pragmatics. Besides that, these units
assist lecturers to interpret some issues or problems in
lexical studies or semantics. The contrastive vision in
the survey of allusions helps to make sense of human
manners of thinking, characteristics of history, culture
and literature in Oriental and Occidental civilisations.
1. ĐỊNH NGHĨA VỀ ĐIỂN CỐ
Từ, ngữ, thành ngữ trong một ngôn ngữ được
gọi là các đơn vị ngôn ngữ bậc cao vì chúng khác
biệt với đơn vị khác, ví dụ âm vị nhờ có ý nghĩa
được chúng biểu đạt. Bên cạnh đó, một đơn vị
khác không phải là đơn vị ngôn ngữ nhưng có giá
trị đặc biệt trong văn chương, trong văn hóa là
điển cố. Điển cố là đơn vị sử dụng trong ngôn ngữ
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
13
do chúng không có mặt thường xuyên trong vốn
từ vựng được ghi nhận trong từ điển toàn dân,
chúng được các tác gia tạo nên trong các tác phẩm
văn học, chính luận, tôn giáo, lịch sử hay sáng tác
dân gian v.v. và được mọi người sử dụng trong
các ngôn bản nói và ngôn bản viết.
Thuật ngữ “điển cố” có cách hiểu trong tiếng
Việt là sự kiện trong sách kinh điển được người
đời dùng bám theo và câu chuyện, sự việc đời xưa,
trong khi đó thuật ngữ Nga “крылатые слова”
nhằm thể hiện những cách diễn đạt sắc sảo, những
trích đoạn, những từ ngữ ngắn gọn được người ta
sử dụng rộng rãi; đây là cách truyền diễn ý cách
nói của Homer trong Iliad và Odissey về lời nói có
cánh. Trong tiếng Anh, thuật ngữ Anh “allusions”
chỉ lời nói bóng gió ám chỉ, tức là quy chiếu ngắn
gọn hay gián tiếp tới con người, địa điểm, sự vật
hay tư tưởng có giá trị về lịch sử, văn hóa, văn học
hay chính trị; hoặc định nghĩa khoa học cho thuật
ngữ này là hàm chỉ gián tiếp bằng từ hay ngữ tới
sự kiện lịch sử, văn học, thần thoại, Kinh thánh
hay tới sự kiện trong đời sống con người khi nói
hay viết. Qua một số định nghĩa trên có thể thấy
có sự khác biệt trong nhìn nhận điển cố: cách xác
nhận của tiếng Việt nhấn mạnh tới sự cổ kính của
cổ nhân trong sáng tạo nên các tác phẩm hay trong
đời sống vốn được rút trích ra làm thành điển cố.
Còn trong cách xác định ở tiếng Anh và tiếng Nga
không xét tới việc đó mà ám chỉ tới tính hàm chỉ
của những đơn vị điển cố vốn có nguồn gốc từ văn
chương, lịch sử hoặc từ các cấu trúc văn hóa khác.
Điển cố đã được giới ngôn ngữ học trên thế
giới khảo sát từ nhiều năm nay. Các học giả Nga
đã dành nhiều tâm sức nghiên cứu các đơn vị điển
cố. Họ đều thừa nhận đây là một trong những
phương tiện tạo ra ngôn ngữ văn học có hình ảnh
và mang tính biểu cảm cao. Người Đức và người
Nga đều dùng cách diễn đạt của Homer trong
“Odyssey” và “Iliad”: “Lời có cánh” để truyền
diễn khái niệm điển cố. Trong hai tác phẩm này
thường có những câu như “Chàng cất tiếng nói lời
có cánh sau đây”, “Họ khẽ khàng trao đổi với
nhau những lời có cánh” Homer và các nhà thơ
Cổ Hy Lạp thường tin rằng lời nói dường như bay
từ miệng người này tới tai người khác.
Asukin N. X và Asukina М. Т. đưa ra một
nhận định rất xác đáng về điển cố: “Những trích
đoạn ngắn gọn, những ngữ mang hình ảnh, những
câu nói súc tích của các nhân vật lịch sử, tên tuổi
các nhân vật huyền thoại và văn chương vốn đã
trở thành danh từ chung, những đặc trưng cô đọng
mang tính hình tượng của các nhân vật lịch sử
(như “Cha đẻ ngành hàng không Nga”, “Vầng thái
dương của thi ca Nga” vốn có nguồn gốc văn học
và được sử dụng trong ngôn ngữ” [14, 3].
Tuy nhiên khái niệm “Крылатые слова” đôi
khi được hiểu ở nghĩa khá rộng. Chẳng hạn có
nhiều người coi thuật ngữ này ứng với ngạn ngữ
hay bất cứ ngữ mang hình tượng nào có nguồn
gốc không chỉ từ văn học và cả trong đời sống
hàng ngày như phong tục, tín ngưỡng, thuật ngữ,
từ nghề nghiệp, v.v..
Có lẽ, cuốn sách đầu tiên thu thập một cách có
hệ thống và khoa học về điển cố trong ngôn ngữ
học Anh, Mĩ là công trình “Dictionary of Phrase
and Fable” (Từ điển điển cố và điển tích) của E.
Cobham Brewer ấn hành lần đầu tiên năm 1870.
Theo cách lí giải của tác giả thì cuốn sách này
“cung cấp nguyên bản, biến thể hay nguồn gốc
của những điển cố phổ biến, những từ ngữ có tích
truyện để kể” [11, V]. Tuy nhiên, bên cạnh những
điển cố đích thực, trong từ điển này còn dẫn ra
nhiều thành ngữ, nhiều từ khó, từ cổ hay thuật ngữ
chuyên môn. Mặc dù vậy, đây là cuốn từ điển
được đánh giá rất cao không chỉ trong giới khoa
học mà cả với đông đảo công chúng độc giả ở trên
thế giới.
Nói chung, cách tiếp cận của các nhà ngôn ngữ
học ở châu Âu và Hoa Kì không có nhiều khác
biệt so với giới ngôn ngữ học Nga trong vấn đề
khảo sát điển cố.
Nhiều luận điểm quan trọng về điển cố nói
chung và điển cố tiếng Anh nói riêng được trình
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng
14
bày trong những công trình như “Toward a
Semantic Description oh English” của Leech G.N.
in năm 1969; “A History of Foreign Words in
English” của Sergeantson M. in năm 1935;
“Semantics: An Introduction to the Science of
Meaning” của Wilmann St. in năm 1962.
Không chỉ các nhà nghiên cứu Anh, Mĩ mà còn
nhiều nhà Anh ngữ học ở Nga rất thành công
trong việc khảo sát các đơn vị điển cố Anh như
Arnold I.V. trong cuốn “The English Word” in
năm 1986, Galperin I.R. trong cuốn “Stylistics” in
năm 1977.
Việc nghiên cứu điển cố trên bình diện tu từ
góp phần xác định sự hành chức của điển cố trong
các ngôn bản như trong cuốn “Linguistic
Stylistics” của Enkvist K. in năm 1973;
“Linguistics and Literature” của Chapman R. in
năm 1971; bài báo “Analogies, Icons and Images
in Relation to Semantic Content of Discourses”
của Hill A.A. đăng tải năm 1968.
Các tác giả Cowie A.P., Mackin R. và McCaig
I.R. trong cuốn “Oxford Dictionary of English
Idioms” cùng đưa ra những kiến giải lí thú, chính
xác về điển cố. Tuy nhiên, cũng như tác giả Kunin
A.V. trong “English – Russian Phraseological
Dictionary”; Binowitsch L.E. và Grischin N.N
trong cuốn “Deutsch – Russisches
Phraseologisches Worterbuch”, các tác giả này
đều đưa điển cố vào cùng phạm trù với thành ngữ.
Một nét tích cực và ưu việt của tất cả các tác giả
này là sự phân tích và khái quát khoa học về cấu
trúc và ngữ nghĩa của điển cố thông qua các khảo
sát chung về thành ngữ.
Ngoài ra, ở Anh, đặc biệt là ở Mĩ đều ấn hành
nhiều loại từ điển câu văn trích. Ví dụ như “The
Oxford Dictionary of Quotations” do Partington A.
chủ biên. Cuốn này trình bày các đơn vị trích dẫn
theo tác giả (Anh, Mĩ và nước ngoài). Cuốn “The
Home Book of Quotations” do Stevenson B. chọn
và sắp xếp là một công trình đặc biệt vì có thể tìm
thấy ở đây rất nhiều đơn vị mang đầy đủ các tiêu
chuẩn về cấu trúc và ngữ nghĩa của điển cố. Với
2.817 trang trình bày các đơn vị trích dẫn theo chủ
đề, người đọc có thể cập nhật được một khối
lượng lớn và đa dạng các đơn vị rút ra từ văn học
cổ điển và văn học cận hiện đại.
Ở Việt Nam đã có một số công trình chuyên về
điển cố, tuy nhiên mới chỉ có từ điển hay sách tra
cứu về các đơn vị điển cố chứ chưa có công trình
khảo cứu chuyên sâu nào về điển cố là công trình
đáng chú ý “Hán Việt thành ngữ” của tác giả Bửu
Cân xuất bản năm 1932, trong đó ông sưu tập một
số đơn vị điển cố. Năm 1942, Long Điền Nguyễn
Văn Minh đã cho xuất bản cuốn “Từ điển văn
liệu”. Theo Nguyễn Văn Ngọc thì văn liệu ở đây
bao gồm “những thành ngữ gồm hai đến bốn tiếng.
Loại hai tiếng nhiều hơn cả. Hầu hết những thành
ngữ ấy thuộc về phạm vi thơ phú, văn chương,
hoặc toàn là Hán văn, hoặc nửa Hán, nửa Nôm,
hoặc Hán đã biến ra Nôm Hoặc khi chép rộng
thêm những điển tích, nhiều nhất thuộc về sử liệu”
[7, 5].
Như vậy, Nguyễn Văn Ngọc coi điển cố là
thành ngữ. Có thể xác nhận đây là một công trình
rất nghiêm túc, có giá trị giúp người đọc hiểu
được kho tàng điển cố hay dùng trong văn thơ cổ.
Năm 1977, công trình khá công phu và khoa
hoc “Điển cố văn học” do Đinh Gia Khánh chủ
biên được ấn hành. Tiếp thu và phát triển thành
tựu nghiên cứu của các học giả đi trước, chuyên
khảo này tập trung khá đầy đủ các đơn vị điển cố,
có tường giải, với những ví dụ chân xác và đầy đủ.
Những năm cuối thế kỷ XX, bạn đọc Việt Nam
liên tục được tiếp nhận những cuốn từ điển thu
thập điển cố như “Ngữ liệu văn học” của Đặng
Đức Siêu in năm 1998, “Từ điển điển cố văn học
trong nhà trường” của Nguyễn Ngọc San và Đinh
Văn Thiện ấn hành năm 1998, “Từ điển từ ngữ
tầm nguyên. Cố văn học. Từ ngữ và điển tích” của
Bửu Kế in năm 2000, trong số đó đáng kể hơn cả
là cuốn “Từ điển cố văn học” của Nguyễn Thạch
Giang và Lữ Huy Nguyên xuất bản năm 1999.
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
15
Bên cạnh đó còn có những cuốn sách khảo cứu
và chú thích các điển cố, điển tích trong Truyện
Kiều như “Điển tích trong Truyện Kiều” của Trần
Phượng Hồ in năm 1996, “Điển tích Truyện Kiều”
của Nguyễn Tử Quang in năm 1998, “Từ điển
Truyện Kiều” của Đào Duy Anh xuất bản năm 1974.
Tác giả Mộng Bình Sơn biên soạn cuốn “Điển tích
chọn lọc” và cho in năm 1989, đây là một tài liệu
tham khảo về điển cố, điển tích khá lí thú.
Ngoài ra, còn có nhiều cuốn sách khác đặng
giúp người đọc tìm biết nhiều kiến thức về ngữ
nghĩa và nội dung văn hóa của điển cố như “Từ
điển giải thích thành ngữ gốc Hán’’ của Viện Ngôn
ngữ học in năm 1997, hoặc một số sách lịch sử
Trung Hoa được biên soạn gần đây như “Nhân vật
Đông Châu” của Nguyễn Tử Quang in năm 1996.
Những công trình nêu trên đều là từ điển, tuy
vậy, một số bài dẫn luận viết rất công phu và phác
thảo ra nhiều mặt về nguồn gốc, ngữ nghĩa và đặc
điểm phong cách học của điển cố.
Các nhà ngôn ngữ học cũng như các nhà
nghiên cứu văn học tiếp cận điển cố từ nhiều
phương diện khác nhau và đã đưa ra một số định
nghĩa khác nhau về điển cố. Xuất phát từ các định
nghĩa, nhận xét của nhiều học giả cũng như khảo
sát riêng của chúng tôi, có thể tạm thời đưa ra một
định nghĩa mang tính làm việc về điển cố:
Điển cố là những câu chuyện từ ngữ trong sách,
là những phát ngôn, hành động, tên của các nhân
vật văn chương và sự thực lịch sử, là những sự
kiện chính trị, chiến tranh, tôn giáo, v.v. trong tiến
trình phát triển xã hội được viết gọn, cô đọng hàm
súc, lời ít ý nhiều.
Điển tích là những cốt truyện, diễn trình của
các sự kiện nổi bật trong văn chương, trong lịch
sử được dẫn lại cô đọng trong ngôn bản.
Như vậy, điển tích có thể được đặt tên, có thể
là nội dung của điển cố. Do đó điển cố bao hàm
điển tích. Chẳng hạn điển cố “Đoạn trường” chỉ
nỗi đau khổ, não nề khôn cùng của cuộc đời. Điển
cố này có điển tích kể chuyện có người thường
ngày đem hai con vượn con bị bắt ra trêu đùa.
Vượn mẹ vẫn lén leo cây đầu nhà vô vọng dõi nhìn
con mình và gào khóc thảm thiết, sau vượn mẹ mệt
quá ngã xuống đất chết, người ta nhặt xác vượn
mẹ đem mổ thì thấy ruột đã đứt nát nhiều đoạn.
Thực ra khái niệm điển cố gồm hai vế điển và
cố. Điển là những gì mà trong định nghĩa điển cố
đã nêu, còn cố chính là nội dung của điển tích.
Điển cố nào cũng có xuất xứ nguồn gốc hoặc
trong sách xưa thuộc văn chương, kinh bổn hoặc
các sự kiện từng diễn ra trong lịch sử sự kiện con
người.
2. KHÚC XẠ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ
PHƯƠNG ĐÔNG QUA ĐIỂN CỐ
Mô thức văn hóa phổ quát xuất hiện nhờ sự
tương tác giữa con người với môi trường và với
những con người khác trong quá trình sống. Mô
thức này được quy định do nhu cầu làm việc để
tồn tại; nhu cầu về luật pháp và trật tự; nhu cầu có
tổ chức xã hội; nhu cầu có tri thức và học tập; nhu
cầu tự thể hiện; nhu cầu biểu đạt tôn giáo. Trong
tiến trình lịch sử, tùy thuộc vào các nhân tố như
chủng tộc, văn hóa, vị trí địa lý v.v. mà các mô
thức này quy định đặc tính riêng cho những nền
văn minh đã và đang tồn tại ở các khu vực khác
nhau trên thế giới.
Có thể khái quát sự khác biệt giữa văn hóa
phương Tây và phi phương Tây (trong đó có
phương Đông) ở một vài nét sau.
Văn hóa phương Tây có căn nguyên từ Cổ Hy
Lạp chuyển hóa sang Cổ La Mã. Tuy nhiên nền
văn hóa này bị khuất lấp dưới bóng tối của thời
Trung cổ để rồi trỗi dậy trong thời Phục hưng, tiếp
đến là cách mạng khoa học, thời Khai sáng, cách
mạng Pháp, cách mạng Mỹ, cách mạng công
nghiệp. Chính văn hóa phương Tây là một hợp thể
tri thức thu nhận được từ quan sát và thực nghiệm
khách quan đối với các hiện tượng tự nhiên và
cuộc sống con người, vì vậy duy lý trở thành cốt
lõi nền tảng của mọi hoạt động tạo nên thực tiễn
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng
16
sống của con người. Chính sự duy lý tạo nên cách
nhìn nhận sự sống bao gồm tính tự lực cá nhân,
hạnh phúc, các quyền của con người, chủ nghĩa tư
bản, khoa học và công nghệ.
Văn hóa không phương Tây căn bản dựa vào
thuyết thần bí và tính duy chủ quan. Những nét
căn bản đó quy định nên sự cưỡng chống tính độc
lập cá nhân, sự hy sinh quên mình, chuyên chế,
không coi trọng tính nhân văn, hờ hững với tiến
bộ kinh tế, khoa học và công nghệ, những nét đó
nảy sinh do hiện thực khách quan bị che khuất sau
tấm màn chủ quan và hiện thực chỉ là sản phẩm
chủ quan do con người tạo dựng, và con người đó
sống được nhờ sức mạnh cơ bắp và các sản vật
của đấng tối cao chứ không phải nhờ duy lý và sản
xuất. Hạnh phúc cá nhân phải được hy sinh vì bổn
phận với đấng tối cao hay cộng đồng (như bộ lạc
hay quần thể xã hội), vì vậy các toan tính giành
hạnh phúc của chính mình bị coi là phi luân lý
đáng bị lên án. Luận lý như vậy bắt nguồn từ tư
tưởng cho rằng Đấng tối cao hay quần thể xã hội
là toàn quyền và giá trị then chốt, chứ không phải
cá nhân, do đó, các quyền cá nhân không được
công nhận hay được bảo vệ.
Điển cố vốn là sản phẩm của các bậc thức giả
viết ra trong các tác phẩm văn chương, triết học,
lịch sử cũng như bắt nguồn từ trí tuệ dân gian tại
những tác phẩm văn xuôi hay thi ca. Chúng lưu
giữ những dấu ấn văn hóa qua từng chặng đường
phát triển của các nền văn minh từ Đông sang Tây.
Có thể thấy những nét văn hóa đó trong nội dung
các điển cố.
Điển cố “Eureka” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp
heureka (Tôi đã tìm ra rồi). Archimedes, nhà triết
học xứ Syracuse, đã thốt ra như vậy lúc ngâm
mình trong bồn tắm, nước trào ra do cơ thể ông
choán thể tích nước và ông phát hiện ra lực tác
động do chất lỏng gây ra đối với một vật thể
nhúng trong đó trong khi đang suy nghĩ cách giải
vấn đề tìm ra kim loại pha trộn trong chiếc vương
miện bằng vàng của vua Hiero. Điển cố này được
dùng như lời cảm thán khi phát hiện ra điều gì đó
là bí ẩn hay phức tạp.
Ý tưởng của Eureka giống như điển cố Cogito,
ergo sum (tiếng La tinh: Tôi tư duy là tôi tồn tại),
đây là lời của Descartes được coi là tiên nghiệm
của sự tồn tại.
Hai điển cố này thể hiện lề thói duy lý, tôn
trọng thực nghiệm và trí năng của con người.
Trong tiểu thuyết “The Catcher in the Rye” của
J.D. Salinger có những mệnh đề đã trở thành điển
cố như “The mark of the immature man is that he
wants to die nobly for a cause” (Dấu hiệu của một
người chưa trưởng thành là việc người đó muốn
chết một cách cao thượng cho một sự nghiệp) và
“The mark of the mature man is that he wants to
live humbly for one” (Dấu hiệu của một người
trưởng thành là việc anh ta muốn sống khiêm
nhường vì một sự nghiệp). Ở đây có thể thấy triết
lý sống của hai nếp văn hóa, một bên cam chịu
chết, còn bên kia quyết sống để làm được những
gì mình phụng sự. Hai lẽ sống tiêu biểu cho hai tư
duy văn hóa phương Tây và không phương Tây
nêu trên.
Điển cố “Man of Destiny” (“Con cưng của số
phận”) nhằm ám chỉ Napoleon. Đại văn hào
Walter Scott đã mô tả Napoleon như vậy vì có
thời kỳ ông ta trói buộc các vua chúa bằng xích
xiềng và tầng lớp quý tộc bằng gông cùm. Ngay
cả người có quyền lực vô song và tiếng tăm lừng
lẫy cũng bị phán xét sâu cay theo quan niệm rất
duy lý “ngay cả mặt trời cũng có vết”. Luận cứ đó
phản ánh tư tưởng của cách mạng Pháp “Liberté,
égalité, fraternité” (“Tự do, Bình đẳng, Bác ái”).
Tác gia, nhà tự nhiên học, nhà triết học tự
nhiên người La Mã Gaius Plinius Secundus, tác
giả bộ “Naturalis Historia” đã có câu nói trở thành
điển cố “Sutor ne supra crepidam” (“Anh thợ giày,
hãy bám vào cái cốt giày của mình ấy”) theo câu
chuyện kể rằng sau khi một anh thợ giày nói trong
tranh của họa sĩ Hy Lạp Apelles có chiếc giầy
thiếu sợi giây cột, ông họa sĩ đồng ý sửa sai, nhưng
Chin lc ngoi ng trong xu t