Dinh là xây dựng, cấu tạo. Dưỡng là bồi đấp, thay thế những gì cũ mòn đi trong cơ thể bằng những nguyên liệu mới.
Dinh dưỡng là ngành khoa học, nghiên cứu về việc nuôi dưỡng, qua việc cung cấp và sử dụng các thức ăn cho thú một cách có hiệu quả, phù hợp với nhu cầu của thú.
16 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2992 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dinh dưỡng thú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG IV
DINH DƯỠNG THÚ
4.1. KHÁI NIỆM VỀ DINH DƯỠNG THÚ
Khái niệm dinh dưỡng:
Dinh là xây dựng, cấu tạo. Dưỡng là bồi đấp, thay thế những gì cũ mòn đi trong cơ thể bằng những nguyên liệu mới.
Dinh dưỡng là ngành khoa học, nghiên cứu về việc nuôi dưỡng, qua việc cung cấp và sử dụng các thức ăn cho thú một cách có hiệu quả, phù hợp với nhu cầu của thú.
Khái niệm về thức ăn:
Thức ăn là những sản phẩm của thực vật, động vật và khoáng vật, cung cấp chất dinh dưỡng phù hợp với đặc tính sinh lý và cấu tạo bộ máy tiêu hóa để vật nuôi có thể ăn được, tiêu hóa và hấp thu được mà sinh sống và phát triển bình thường trong một thời gian dài.
Nếu xét về mặt chức năng thì có thể định nghĩa: thức ăn là những chất mang lại cho cơ thể những nguyên liệu để:
Sinh ra năng lượng để bù đắp sự hao tổn hàng ngày của cơ thể về năng lượng.
Tạo ra các tế bào, tổ chức và các chất cần thiết cho sự sống và sự phát triển của cơ thể.
Sản xuất các thú sản.
Tạo nguồn dinh dưỡng dự trữ trong cơ thể.
Thức ăn gia súc trong thiên nhiên là những chất phức tạp, chứa nhiều chất dinh dưỡng. Mỗi chất dinh dưỡng đều có cấu tạo hóa học và chức năng riêng.
Cung cấp thức ăn cho thú:
Việc cung cấp thức ăn cho thú đóng vai trò quan trọng trong việc chăn nuôi.
Về phương diện sinh học:
Trước hết ta có thể xem thú như một nhà máy công nghệ sinh học, chế biến các thức ăn thành thú sản và thức ăn được coi như là nguyên liệu.
Về phương diện kinh tế:
Nếu xét về phương diện giá thành của thú sản, thì thức ăn chiếm từ 60-80% giá thành này.
Khi sử dụng thức ăn không đúng, thú phát triển không theo yêu cầu sẽ bị thiệt hại về mặt kinh tế. Muốn cung cấp thức ăn cho thú một cách hợp lý, ta phải biết nhu cầu của từng loại thú.
4.2. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG VÀ ĐƠN VỊ DINH DƯỠNG:
Để đánh giá chất lượng của thức ăn, người ta đã dùng một số phương pháp sau đây:
4.2.1. Phương pháp phân tích thức ăn:
Ngay từ đầu thế kỹ XVIII người ta đã dùng phương pháp phân tích thức ăn để xác định thành phần hóa học của thức ăn và cơ thể vật nuôi. Qua đó người ta thấy được những điểm giống nhau và khác nhau giữa thức ăn và cơ thể mà tìm biện pháp nuôi dưỡng thích hợp. Đồng thời qua những số liệu phân tích, bước đầu có thể phân loại được thức ăn tốt hay xấu.
Phương pháp nầy chưa phản ảnh được đầy đủ giá trị thực tế của các chất dinh dưỡng trong thức ăn, chưa cho biết thức ăn ảnh hưởng như thế nào đối với sức khỏe và sức sản xuất của vật nuôi, phương pháp nầy mới phản ảnh được về mặt số lượng mà chưa đánh giá được đầy đủ về mặt chất lượng của thức ăn.
Tuy nhiên, phương pháp nầy tương đối đơn giản, có kết quả nhanh và thông qua kết quả thử nghiệm của một số phương pháp khác phương pháp nầy được ứng dụng rộng rãi trong ngành chăn nuôi.
Các chỉ tiêu phân tích thức ăn thường được lưu ý trong chăn nuôi là: vật chất khô, chất đạm, chất béo, chất xơ, chất khoáng, sinh tố, một số độc chất….
4.2.2. Phương pháp thử mức tiêu hóa thức ăn:
Một số khái niệm:
- Tiêu hóa thức ăn là một quá trình biến đổi thức ăn từ những chất dinh dưỡng phức tạp, phân giải thành những chất đơn giản ở bên trong cơ quan tiêu hóa của động vật, những chất đơn giản nầy có thể được cơ thể hấp thu và đồng hóa. Mức độ tiêu hóa thức ăn phản ảnh chất lượng của thức ăn và được biểu thị bằng tỷ lệ tiêu hóa (TLTH).
TLTH =
- Tỷ lệ tiêu hóa của một chất dinh dưỡng nào đó trong thức ăn là tỷ lệ giữa những phần tiêu hóa được của chất dinh dưỡng đó so với những phần ăn vào, tính theo tỷ lệ phần trăm, được tính theo công thức sau:
X 100
Chất dinh dưỡng ăn vào – chất dinh dưỡng trong phân
Chất dinh dưỡng ăn vào
Ví dụ 1: Cho vật nuôi ăn 2kg chất hữu cơ, thấy còn thải ra theo phân là 0,5kg chất hữu cơ đó. Vậy tỷ lệ tiêu hóa của chất hữu cơ trong loại thức ăn đó là:
X 100 = 75%
2kg - 0,5kg Vn – V(n –1)
2kg
Ví dụ 2: Cho bò đực thiến ăn khẩu phần cỏ khô, tiến hành theo dõi kết quả thí nghiệm có kết quả như sau:
Bảng 4.1 Tỷ lệ tiêu hóa một số chất di nh dưỡng trong cỏ khô của bò thịt
CÁC CHẤT
DINH DƯỠNG
THÀNH PHẦN
(%)
KHỐI LƯỢNG CHẤT
DINH DƯỠNG (kg)
CHẤT DINH
DƯỠNG TIÊU
HÓA ĐƯỢC
(kg)
TỶ LỆ
TIÊU HÓA
(%)
Cỏ khô
Phân
Cỏ khô
Phân
Protein
Chất béo
Bột đường
Xơ
9,7
2,5
23,5
62,0
2,5
0,9
8,7
6,5
0,870
0,225
3,700
2,370
0,39
0,14
1,37
1,07
0,480
0,085
2,330
1,350
55,20
38,00
62,90
59,20
Thông thường người ta dùng chất chỉ thị màu như Silic Oxide (SiO2) hay Chromic Oxide (Cr2O3).
Những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ lê tiêu hóa của thức ăn:
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tỷ lê tiêu hóa của thức ăn, sau đây là một số nhân tố chính:
Giống, loài, tuổi, cá thể:
Thành phần của khẩu phần:
Thành phần chất xơ trong khẩu phần: Thức ăn càng nhiều xơ thì tỷ lệ tiêu hóa càng giảm.
Anh hưởng của protein trong khẩu phần: Tăng lượng protein trong khẩu phần không những làm tăng tỷ lệ tiêu hóa của thành phần protein mà còn làm tăng tỷ lệ tiêu hóa của các thành phần hữu cơ khác của khẩu phần. Tuy nhiên khẩu phần có quá nhiều protein so với yêu cầu của vật nuôi sẽ gây tác hại tới cơ năng tiêu hóa.
Anh hưởng của chất bột đường trong khẩu phần: Ở loài nhai lại, khi trong khẩu phần có quá nhiều thức ăn giàu chất bột đường thì tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong khẩu phần giảm. Ở loài dạ dày đơn không thấy hiện tượng nầy.
Ảnh hưởng của lipid trong khẩu phần:Thành phần lipid trong khẩu phần ít ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêu hóa của các chất khác. Tuy nhiên, khi lượng mỡ vượt quá giới hạn nhất định mức tiêu hóa của khẩu phần sẽ bị giảm.
Ảnh hưởng của một số chất khác: Chất tạo mùi, muối, thức ăn ủ men…..
Ảnh hưởng của khối lượng thức ăn:
Khi khối lượng khẩu phần thức ăn giảm đi so với mức ăn bình thường thì tỷ lệ tiêu hóa của khẩu phần tăng lên.
Một số nhân tố khác:
Thời tiết, chăm sóc quản lý, cách cho ăn, sự vận động….
4.2.3. Phương pháp thí nghiệm sinh vật học:
Phương pháp thí nghiệm sinh vật học là phương pháp xác định giá trị dinh dưỡng của thức ăn thông qua cơ thể vật nuôi: cho vật nuôi ăn một loại thức ăn, sau một thời gian theo dõi nhất định sẽ dựa vào kết quả thể hiện trên vật nuôi như sự tăng trọng, sản lượng sữa, sản lượng trứng… mà đánh giá chất lượng thức ăn tốt hay xấu. Tùy theo chỉ tiêu khảo sát mà người ta có thể theo dõi trên thú sống hay phải giết mổ vật nuôi mới có được kết quả.
a/Phương pháp thí nghiệm cân bằng vật chất:
Đây là phương pháp đánh giá chất lượng thức ăn thông qua việc nhận xét thay đổi cơ thể của vật nuôi theo sự chênh lệch giữa các chất dinh dưỡng trong thức ăn ăn vào và các chất bài tiết ra. Trong thức ăn có nhiều chất dinh dưỡng, nhưng trong thí nghiệm cân bằng vật chất chỉ theo dõi sự cân bằng của protein, lipid và chất khoáng còn glucid và nước ít xét tới.
b/Đơn vị thức ăn:
Có nhiều loại đơn vị dinh dưỡng, tùy theo lịch sử và tùy theo quốc gia mà có thể khác nhau. Ngày nay những đơn vị còn được dùng là:
Đơn vị tinh bột (O. Kellner):
Đơn vị tinh bột là 1kg tinh bột thuần có giá tri tích lũy 248gam mỡ trong cơ thể thú. Muốn biết giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn khác, phải xác định được giá trị tích lũy mỡ của chúng rồi đem so sánh với tinh bột.
Đơn vị lúa mạch:
Đơn vị yến mạch là 1kg yến mạch có giá trị tích lũy 148,8gam mỡ hay bằng 1414 Kcal NE. Phương pháp xác định hệ đơn vị nầy căn bản dựa trên đơn vị tinh bột của Kellner. Nhưng có tiến bộ hơn là bổ sung được tỷ suất thực ở nhiều loại thức ăn.
Đơn vị TDN (Total Digestible Nutrients):
Là tổng các chất dinh dưỡng tiêu hóa được của thức ăn gồm các chất tiêu hóa cộng lại, tính theo trọng lượng. Công thức tính là:
TDN = Protein tiêu hóa + Glucid tiêu hóa + (Lipid tiêu hóa X 2,3)
Đơn vị thức ăn của Việt Nam hiện nay:
Từ trước tới nay phần lớn cách tính đơn vị thức ăn ta còn dựa vào đơn vị tính thức ăn của nước ngoài. Cho đến nay chúng ta đã tiến hành xác lập đơn vị thức ăn của ta và dùng năng lượng trao đổi (ME) để làm cơ sở tính gía trị dinh dưỡng các loại thức ăn của vật nuôi.
ĐVTĂ =
Công thức tính đơn vị thức ăn theo năng lượng trao đổi như sau:
( Protein TH. X a)+(Béo TH X b)+(Xơ TH X c)+(Bột đường TH X d)
2500
Trong đó: TH = tiêu hóa.
a,b,c,d = hệ số năng lượng trao đổi 1gam chất dinh dưỡng tiêu hóa được.
2500 = đơn vị tính là 2500kcal ME, với đơn vị nầy thì không làm đảo lộn các số liệu cũ.
Một số từ thông dụng trong thức ăn:
CP: Crude protein
DP: Digestible protein
GE: Gross Energy
DE: Digestible Energy
ME: Metabolisable Energy
NE: Net Energy
NEm: NE maintenance
NEmp: NE maintenance and production
NEg: NE for gain
NEl: NE for lactation
TDN: Total Digestible Nutrients
DM: Dry Matter
CF: Crude Fibre
NFE: Nitrogen Free Extract
NPN: Non Protein Nitrogen
1Kcal = 4,184 Kjoule Mcal=1.000.000cal
1KJ = 0,239 Kcal
4.3. VAI TRÒ MỘT SỐ CHẤT DINH DƯỠNG CHÍNH:
4.3.1. Dưỡng khí
Dưỡng khí rất cần cho sự sống của thú, cơ thể sinh vật cần Oxy để oxid hóa các loại đường tạo thành năng lượng cho các hoạt động của cơ thể thú. Sự đưa dưỡng khí vào cơ thể thú tùy thuộc vào 3 yếu tố sau:
- Không khí phải có nhiều dưỡng khí:
Thường không khí ở xa nơi tập trung dân cư, khu công nghiệp thì có` nhiều dưỡng khí hơn. Các vùng đồi núi, vùng nông thôn thưa dân cư cũng có nhiều dưỡng khí hơn. Thông thường trong chuồng nuôi thú, dưỡng khí có thể bị thiếu khi chuồng không thông thoáng, vách chuồng sát mặt đất và không có lỗ thông hơi làm không khí không di chuyển được, nền chuồng bị ẩm ướt.
Sự hô hấp của thú:
Việc đưa không khí vào phế nang nhiều ít tùy thuộc vào thể tích sử dụng được của phế nang và cường độ hô hấp của thú. Những thú khỏe mạnh, phế nang tốt có thể đưa không khí vào phổi tối đa.
Máu phải đầy đủ :
Trong máu cần phải có nhiều hemoglobin để có thể vận chuyển Oxy.
4.3.2. Nước
Nước là thành phần quan trọng nhất trong cơ thể thú, nó chiếm từ 60-90% trọng lượng thú. Nước có vai trò rất quan trọng không thể thay thế được đối với thú vì:
- Nước tham gia vào việc tiêu hóa và hấp thu thức ăn. Nước là dung môi hòa tan các chất trong cơ thể như thức ăn, dịch nội tạng, dịch thải. Nhờ tan trong nước mà các chất có thể vận chuyển được trong cơ thể. Thức ăn tiêu hóa được nhờ dịch tiêu hóa, các dịch tiêu hóa đều chứa nước: dịch vị chứa 98% nước. Nhờ có nước mà bảo đảm được sự thống nhất các quá trình trao đổi chất bên trong và tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường.
- Nước là môi trường để các phản ứng hóa học xảy ra và nước cũng tham gia vào một số phản ứng trao đổi chất của cơ thể. Các phản ứng thủy phân, hydrat hóa và khử nước, oxid hóa và nhiều phản ứng tổng hợp đều gắn liền với sự kết hợp hay tách nước ra.
- Nước có vai trò bảo vệ các mô và các cơ quan của cơ thể động vật chống các chấn động (lớp nước của màng phổi, màng tim…),làm giảm tác dụng ma sát và giữ thể hình con vật. Nước rất dễ chuyển dịch làm cho cơ thể có tính đàn hồi, làm giảm nhẹ các lực tác động vào cơ thể.
- Nước tham gia điều hòa thân nhiệt của thú.
Khi cơ thể động vật mất hết mỡ, đường và ½ protid trong tổ chức, thể trọng giảm đi 40% nhưng vật vẫn còn sống. Nhưng khi cơ thể mất đi 1/10 lượng nước, con vật đã thấy khó sống, nếu mất tới 2/10 lượng nước, con vật sẽ chết. Khi thiếu nước sẽ ứ động lại trong cơ thể các chất độc là sản phảm cuối cùng của sự trao đổi chất.
Nước cung cấp cho cơ thể gồm 3 nguồn: nước uống vào, nườc có trong thức ăn và nước trao đổi.
Tùy loài gia súc và lọai thức ăn cho vật nuôi ăn mà cung cấp một lượng nước uống khác nhau. Số lượng nước uống tổng cộng mà một con thú cần trung bình khoảng trên 10% trọng lượng của thú như:
Ngựa : 20-25 lít/ngày.
Bò, trâu : 20-60 lít/ngày.
Dê, cừu, heo: 5-10 lít/ngày.
Gà, vịt :0,250lít/ngày.
Nước uống cho gia súc phải là nước tốt, không có vi trùng độc, không có chất độc và phải có nhiệt độ tương đối mát.
Nước trong thức ăn chiếm một tỷ lệ khá lớn, các loại cỏ tươi, rau xanh chứa từ 70-90% nước. Thức ăn củ quả có hàm lượng nước từ 65-95% nước. Thức ăn hạt chứa lượng nước từ 9-14%.
Khi oxid hóa 100gam protein tạo được 41ml nước, khi oxid hóa 100gam glucid tạo thành 55ml nuớc, khi oxid hóa 100gam lipid tạo thành 107ml nước. Nhờ nước trao đổi mà một số loài động vật có thể nhịn uống trong thời gian dài mà vẫn sống.
4.3.3. Protid trong dinh dưỡng động vật:
Protid là từ gọi chung cho những hợp chất có chứa N (Nitrogen) trong thức ăn hay cịn gọi l protein thơ, thơng thường người ta phân chia protein thô thành 2 nhóm: protein thuần hay cịn gọi l protein thực (True protein) v chất chứa N khơng phải l protein (Non Protein Nitrogen: NPN). Lựơng N cĩ trong protein trung bình khỏang 16%, do đó để tính lượng protein trong khẩu phần thường người ta dùng công thức:
Lượng protein thô = N x 6,25
Protein thuần
Protein là một hợp chất hữu cơ, bao gồm các nguyên tố C, H, O và N. Trong thành phần một số amino acid như: methionine, cysteine còn có chứa sulphur (S).
Phân tử protein được cấu tạo bởi 22 acid amin (AA), trong số nầy có 10 AA thiết yếu (không thay thế được) và 12 AA không thiết yếu (có thể thay thế hoặc tổng hợp được).
Các AA thiết yếu: Lysine, Methionine, Threonine, Tryptophane, Leucine, Isoleucine, phenylalanine, Histidine, Valine và Arginine.
Các AA khơng thiết yếu, các lọai nầy vật nuôi có thể tổng hợp được trong cơ thể : Glutamic, Aspartic, Alanine, Serine, Glycine…….
Trong các chất dinh dưỡng cần thiết cho gia súc, protein giữ vị trí rất quan trọng. Có thể nói sự sống của gia súc liên quan chặt chẽ đến các quá trình tổng hợp và phân giải protein trong cơ thể. Sự hoạt động của hệ thần kinh, tuần hoàn, tiêu hóa, tiết sữa, sinh sản, khả năng di truyền, chống bệnh…của gia súc đều liên quan đến quá trình trao đổi protein trong cơ thể. Số lượng và chất lượng protein của các loại thức ăn rất khác nhau: thức ăn động vật, các loại hạt đậu thường cao hơn so với thức ăn họ hòa thảo và thức ăn củ quả….Chất lượng protein ở thức ăn thô xanh cao hơn ở thức ăn hạt.
Protein trong khẩu phần trước khi tham gia các quá trình biến đổi chất trong cơ thể, nó được phân giải ở đường tiêu hóa thành các amino acid và sẽ được hấp thu qua thành ruột. Các amino acid sau khi được hấp thu lại được tổng hợp thành protein của cơ thể và các sản phẩm khác, thay thế và đổi mới một phần các tế bào trong cơ thể, tham gia tổng hợp các enzyme, hormon, kháng thể và nhiều chất quan trọng khác để điều khiển các quá trình biến đổi và bảo vệ cơ thể sống. Trong trường hợp khẩu phần thiếu năng lượng , một phần protein phải chuyển thành nguồn năng lượng cung cấp cho cơ thể, vì vậy phải lưu ý đến tỷ lệ năng lượng/protein khi xây dựng khẩu phần cho thú.
Khi gia súc thiếu protein sẽ dẫn đến một số hiện tượng sau:
Thiếu protein sẽ phá hoại khả năng trao đổi chất, xuất hiện bệnh phù thũng, sự phát phì của gan và một loạt các phá họai trầm trọng khác đều liên quan đến do sự thiếu protein.
Thiếu protein sẽ ảnh hưởng đến khả năng miển dịch của thú đối với một số bệnh.
Anh hưởng đến tuyến nội tiết. Tuyến thượng thận bị phá hoại nặng nề, lượng adrenaline bị giảm. Ơ tuyến yên, tế bào sản xuất ra hormon tăng trưởng bị giảm.
Khi thiếu protein, việc hình thành choline trong gan không thực hiện được, gan sẽ bị nhiễm mỡ. Mỡ tạo thành nhiều trong gan làm thiếu thêm các protein có chứa methionine.
Làm yếu các hoạt động phản xạ có điều kiện .
Cơ thể bị sút cân và sự phát triển bị đình trệ.
Làm thay đổi thành phần hóa học và cấu tạo hình thái xương. Khi trong khẩu phần protein giảm đến 3,5 – 1,7% thì xương sẽ ngừng phát triển.
Cung cấp protein cho vật nuôi không những đủ về số lượng mà còn đòi hỏi phải có chất lượng tốt. Để so sánh giá trị dinh dưỡng các loại protein người ta dùng chỉ tiêu giá trị sinh học protein.
Giá trị sinh vật học của protein thức ăn được xác định qua thành phần AA thiết yếu trong thức ăn, khả năng tiêu hóa và tỷ lệ hấp thu của chúng trong cơ thể thú. Thành phần AA của protein thức ăn cần gần với thành phần AA của protein cơ thể thì giá trị sinh học của protein thức ăn càng cao.
Giá trị sinh học của protein được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm giữa lượng protein tích lũy được trong cơ thể so với lượng protein của thức ăn tiêu hóa được. Công thức tính là:
X 100
Lượng protein tích lũy trong cơ thể
Lượng protein của thức ăn tiêu hóa được
GTSH proetein =
Giá trị sinh học của protein thay đổi tùy theo loại thức ăn. Loại thức ăn nào có protein chứa đầy đủ các acid amin không thay thế với tỷ lệ cân đối thì loại protein đó có giá trị sinh học cao. Vắng một trong những acid amin không thay thế sẽ làm cân bằng protein bị phá hoại và toàn bộ các acid amin còn lại cũng sẽ được cơ thể sử dụng hạn chế. Do đó giá trị sinh học protein động vật cao hơn protein thực vật.
VD: Đối với heo giá trị sinh học của protein của sữa là: 84 – 95% của bột cá là 74% của bánh dầu đậu nành là 73% va của bắp là 54%.
Giá trị sinh học của protein còn thay đổi tùy theo loài vật nuôi.
Bảng 4.2 Sự thay đổi giá trị sinh học theo thực liệu và theo loài
LOÀI
GIÁ TRỊ SINH HỌC PROTEIN
BẮP
KHOAI TÂY
HEO
54%
75%
CHUỘT
60%
67%
Để tăng cao giá trị sinh học của protein, người ta thường hỗn hợp các loại thức ăn với nhau sẽ khắc phục việc thiếu acid amin, hoặc là bổ sung thêm các acid amin tổng hợp. VD : Bắp thiếu lysine và tryptophane. Nuôi heo thịt bằng bắp tăng trọng 0,55kg/ngày và tiêu tốn 4,5kg thức ăn để tăng 1kg thể trọng. Nếu bổ sung thêm 0,22% lysine và 0,02% trytophane sẽ tăng trọng 0,73kg/ngày và tiêu tốn 3,5kg thức ăn để tăng 1kg thể trọng.
Đậu nành khi chế biến nhiệt ở 112 – 1150C trong 2 phút hoặc 1050C trong 90 phút làm tăng giá trị sinh học của protein đậu nành lên 2 lần so với để ăn sống.
Một số thức ăn khác khi chế biến ở nhiệt độ cao trong thời gian dài có ảnh hưởng xấu tới giá trị sinh học của protein như : bột cá, bột cỏ, sữa…….
VD: Các loại rau cỏ sấy khô ở nhiệt độ cao, tỷ lệ tiêu hóa giảm từ đó giá trị sinh học của protein cũng giảm.
Sấy sữa làm mất 30% lysine.
Bảng 4.3 Thay đổi tỷ lệ tiêu hóa theo nhiệt độ sấy
CỎ KHÔ SẤY
NHIỆT ĐỘ
43 – 740C
930C
Tỷ lệ tiêu hóa protein thô
71%
69%
NPN (Non Protien Nitrogen): Còn gọi là chất đạm phi protein, đây là chất chứa N nhưng không phải protein, có thể là những sản phẩm chuyển hóa trung gian hoặc cuối cùng của quá trình chuyển hóa protein, hoặc là một số vitamin hay một số họat chất sinh học khác có chứa N. NPN gồm hai lọai chính như sau:
Chất chứa N có giá trị cao: gồm các acid amin, các peptid mạch ngắn, một số vitamin và hormon….
Các chất chứa N có giá trị thấp: Urea, acid uric, nitrat, nitric, amonium….
Trong nhóm các chất NPN có giá trị thấp thì urea hay còn gọi là carbamid được sử dụng bổ sung nguồn đạm cho thú nhai lại, nó được coi là thành phần quan trọng trong chu trình tuần hòan N giữa gan và dạ cỏ. Carbamin được tổng hợp từ CO2 và NH3, khi vào dạ cỏ dưới tác dụng của enzyme urease sẽ phân hủy urea thành CO2 và NH3, vi sinh vật trong dạ cỏ sẽ sử dụng nguồn N nầy để tổng hợp thành acid amin, protein.
4.3.4. Chất bột đường (Carbohydrates):
Còn gọi là glucid, là thành phần chủ yếu cấu thành chất khô của các loại thức ăn thực vật. Chất bột đường được cấu tạo bởi các nguyên tố C, H, O. Trong thiên nhiên có rất nhiều loại glucid, trong dinh dưỡng cho thú và theo việc phân tích phân tích thức ăn phổ biến hiện nay, người ta lưu ý hai nhóm chất không đồng nhất là xơ thô và dẫn xuất không đạm.
4.3.4.1. Dẫn xuất không đạm (Nitrogen Free Extract):
Trong dẫn xuất không đạm có đường, tinh bột, acid hữu cơ và một số chất khác. Trong các chất trên, đường và tinh bột là có ý nghĩa lớn trong chăn nuôi. Đường trong thức ăn chủ yếu là glucose, fructose, saccharose, maltose….Tinh bột là chất dự trữ chủ yếu của cây trồng, có nhiều trong hạt, củ, quả, có ít trong thân lá.
Đường và tinh bột cung cấp năng lượng và các chất dinh dưỡng cho gia súc, đồng thời cũng cung cấp nguyên liệu cho vi sinh vật trong dạ cỏ của thú nhai lại tổng hợp protein. Ở dạ cỏ gia súc nhai lại, đường và tinh bột cũng như các loại glucocid khác được phân giải thành đường đơn, sau đó lên men tạo thành các acid béo bay hơi. Đây là nguồn năng lượng để hấp thu đối với vi sinh vật và cơ thể của thú nhai lại. Một phần tinh bột và đường của thức ăn chưa bị lên men ở dạ cỏ khi chuyển đến ruột non sẽ phân giải thàn