Dinh dưỡng liên quan đến một loạt tiến trình trong đó động vật lấy và sử dụng
vật chất thức ăn cho duy trì, tăng trưởng, sinh sản và những hoạt động sản xuất
khác. Dinh dưỡng cơ bản liên quan chủ yếu đến cấu trúc tự nhiên, những
nguồn dưỡng chất và những thay đổi xảy ra trong cơ thể động vật cũng như
những quá trình lấy thức ăn, tiêu hóa, hấp thu, biến dưỡng và thải trong ống
tiêu hóa của động vật. Dinh dưỡng ứng dụng bao gồm những lĩnh vực trong
chăn nuôi, kinh tế, kỹ thuật ứng dụng những nguyên tắc dinh dưỡng cho sự
sản xuất thương mại những loài nhất định.
28 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1938 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dinh dưỡng và thức ăn nuôi tôm cá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
189
DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN NUÔI TÔM CÁ
Ths. Nguyễn Quang Thủy
Ks. Bạch T.Quỳnh Mai
Nội dung
I. Đặc điểm dinh dưỡng của động vật thủy sản
1. Tập tính ăn
2 Nhu cầu và khẩu phần
Nhu cầu duy trì
Nhu cầu tăng trưởng
Nhu cầu sinh sản
Nhu cầu dưỡng chất
3. Nhu cầu dinh dưỡng và thức ăn cho tôm sú
4 Nhu cầu dinh dưỡng của cá basa (Pangasius bocourti) và cá tra
II Chế biến thức ăn cho nuôi thủy sản
1 Nguyên liệu cho sản xuất thức ăn
2 Tổ hợp khẩu phần thức ăn cho tôm cá
3 Phương pháp chế biến
III Quản lý thức ăn trong nuôi thủy sản
1 Quản lý chất lượng nguyên liệu và thức ăn
Vệ sinh và an toàn thực phẩm
2 Quản lý cho ăn
Sử dụng thức ăn nhân tạo
Khẩu phần bổ sung
Sử dụng thức ăn hỗn hợp
Phụ Lục 1,2
190
Dinh dưỡng liên quan đến một loạt tiến trình trong đó động vật lấy và sử dụng
vật chất thức ăn cho duy trì, tăng trưởng, sinh sản và những hoạt động sản xuất
khác. Dinh dưỡng cơ bản liên quan chủ yếu đến cấu trúc tự nhiên, những
nguồn dưỡng chất và những thay đổi xảy ra trong cơ thể động vật cũng như
những quá trình lấy thức ăn, tiêu hóa, hấp thu, biến dưỡng và thải trong ống
tiêu hóa của động vật. Dinh dưỡng ứng dụng bao gồm những lĩnh vực trong
chăn nuôi, kinh tế, kỹ thuật ứng dụng những nguyên tắc dinh dưỡng cho sự
sản xuất thương mại những loài nhất định.
Nghiên cứu dinh dưỡng
Cơ bản Ứng dụng
- Nhu cầu dinh dưỡng - Đánh giá nguyên liệu
- Biến dưỡng - Tiêu hóa của khẩu phần
- Dinh dưỡng và môi trường - Tỷ lệ cho ăn
- Phân tích thành phần - Tăng trưởng và khẩu phần
- Phân tích khẩu phần
Chuẩn mực về dưỡng chất (dinh dưỡng)
Tiêu chuẩn nguyên liệu (tiêu chuẩn)
Công thức giá thấp Chuẩn mực của
Quá trình chế biến quá trình
Bột Miếng, tấm Hạt nhỏ Viên Viên nổi
(meal) (flake) (microcapsules) (pellet) (extrusion)
Macgrath, 1975
Ngày nay mục đích của dinh dưỡng trong nuôi thủy sản là: (1) Phát triển thức
ăn cho tăng trưởng tối ưu của cá (yêu cầu về mặt sinh học), (2) Điều chỉnh
chất lượng sản phẩm cuối cùng (yêu cầu thị trường), (3) Tối thiểu giá thức ăn
nghĩa là dùng những nguồn thức ăn rẻ tiền dễ kiếm (yêu cầu về mặt kinh tế)
và (4) giảm thiểu việc thải ra môi trường (yêu cầu môi trường). Những yêu
cầu này đã và đang có ảnh hưởng trực tiếp và cấp thiết cho khả năng phát
triển bền vững nghề nuôi trong tương lai.
191
I. ĐẶC ĐIỂM DINH DƯỠNG CỦA ĐỘNG VẬT THỦY SẢN
1. Tập tính ăn
Thủy sản bao gồm các loài cá (finfish) và giáp xác (crustacean) có những đặc
điểm dinh dưỡng rất chuyên biệt và rất khác so với động vật trên cạn.
Cá, tôm nuôi có những tập tính bắt mồi đặc thù trong cuộc sống của chúng
hay trong những giai đoạn (ấu trùng-hậu ấu trùng-giống-trưởng thành-thành
thục). Về cơ bản, tôm, cá được chia ra các nhóm sau đây:
Bảng 1: Phân loại thủy sản theo tập tính ăn
Tập tính bắt mồi (%) loài Ví dụ
Aên động vật 85 lươn, mú, chẽm, tôm sú ..
Aên tạp 4 chép, rô phi, cá da trơn, TCX
Aên thực vật 6 trắm cỏ, mè vinh,
Aên mùn bã 3 trôi ấn, đối
Tập tính ăn mồi của những loài cá, tôm được thể hiện qua hình dạng bên
ngoài cũng như hệ tiêu hoá bên trong của chúng giúp chúng ta hiểu được
chúng ăn gì và ăn như thế nào.
Các loài cá sống trong những tầng nước khác nhau (tầng mặt, giữa, và tầng
đáy) và chỉ bắt mồi trong những tầng nước mà chúng sinh sống, do vậy sẽ có
hình dạng cơ thể thích ứng cho việc tồn tại và bắt mồi trong tầng nước đó.
Những loài cá bắt mồi ở tầng mặt hay tầng giữa có miệng với hàm dưới nằm
ngang hay đưa lên. Ngược lại, những loài bắt mồi tầng đáy thì hàm trên của
chúng đưa xuống hay đưa ra tạo sự thích nghi trong việc săn mồi.
Có những loài ăn mồi bằng cách hớp nước thụ động có lược mang rất nhỏ và
nhiều nhằm chọn lọc thức ăn. Một số hớp nước có chủ ý đến con mồi chúng
muốn bắt và một số loài ăn thịt hay ăn thực vật thân thảo thì thường rượt đuổi,
vờn bắt, cắn xé con mồi, lược mang của chúng rất lớn và ngắn nhưng răng
hàm hay răng hầu phát triển giúp ích cho việc cắn, xé nghiền nói trên.
Ngoài một số hình dạng bên ngoài của cá tôm liên quan đến tập tính bắt mồi
của chúng thì hệ tiêu hoá cũng thích nghi với việc tiêu hóa thức ăn con mồi.
Một số có dạ dầy: tra, lóc và ngược lại một số loài không có, hay có sự tương
quan giữa tỉ lệ ruột với chiều dài thân thể hiện là chúng ăn động vật (<1.5:1),
ăn tạp (≤ 2:1), ăn thực vật (>3:1).
Các yếu tố xác định sự lựa chọn mồi
+Sự tiện lợi của mồi: mật độ mồi liên quan đến sự lựa chọn, tuy nhiên nếu có
sự tham gia của các vật cản trở (rác, những giá thể cho mồi lẩn trốn) thì khả
năng tiến đến gần con mồi bị hạn chế.
192
+Đặc điểm của mồi và cá: do con mồi có tính lẩn trốn, cho dù cá có phát hiện
ra chúng nhưng cũng khó mà bắt được mồi. Cá phát hiện con mồi bằng thị lực,
chúng xác định con mồi thông qua kích cở, màu sắc, và sự chuyển động của
mồi và ánh sáng và độ đục. Kích cở mồi càng lớn thì khoảng cách xác định
được con mồi càng cao. Trong cùng kích cở mồi nhưng màu sắc khác nhau thì
khả năng chọn những mồi có màu sắc tương phản nhiều hơn.
+Khả năng tiêu hóa: cá ăn thực vật không có dạ cỏ nên phải chọn lựa những
thực vật có vi khuẩn sống cộng sinh trong đấy.
+Kinh nghiệm săn bắt mồi: (ví dụ huấn luyện cá mú ăn thức ăn viên).
+Kích thước miệng của cá săn mồi
Các yếu tố xác định tỉ lệ thức ăn được tiêu thu gồm: mật độ, mùi, vị mồi,
tác động bầy đàn của cá săn mồi, kẻ địch.
Hiểu được khả năng săn mồi và tập tính ăn của cá, tôm giúp cho người nuôi
xác định được chế độ cho ăn phù hợp: đó là phải chắc chắn về loại thức ăn, cỡ
mồi, số lần và thời điểm cho ăn.
Ngoài ra tùy theo môi trường sống mà cá có thể được xếp vào nhóm cá nước
mặn hoặc cá nước ngọt. Trong hai nhóm này còn có thể phân nhỏ hơn là nhóm
cá nước ấm khi sống ở môi trường có nhiệt độ nước 20 -30oC, hoặc nhóm cá
nước lạnh khi sống ở môi trường có nhiệt độ dưới 20oC.
2. Nhu cầu và khẩu phần
Nhu cầu dinh dưỡng giữa thủy sản và động vật trên cạn tuy giống nhau cơ bản
nhưng có một số điểm khác biệt sau:
- Cá và tôm là động vật biến nhiệt nên nhu cầu năng lượng thấp hơn
nhiều so với động vật trên cạn dẫn đến tỷ lệ protein/ năng lượng lại cao
hơn. Mặt khác thủy sản là sinh vật bài tiết amonia rất khác với sinh vật
trên cạn (bài tiết urea hay uric acid) điều này ảnh hưởng rất nhiều đến
giá trị sử dụng năng lượng của protein.
- Thủy sản có khả năng hấp thu các muối khoáng trong nước nên nhu cầu
khoáng rất khác với động vật trên cạn. Mặt khác do giảm khối lượng bộ
xương thích nghi với môi trường nên nhu cầu Ca và P của cá thấp hơn,
thường chỉ bằng ¼ so với động vật trên cạn
- Một số nhu cầu các dưỡng chất khác chỉ có ở thủy sản như cá có nhu
cầu các acid béo nhóm n3 chứa nhiều nối đôi (PUFA) hay tôm và giáp
xác có nhu cầu sterol.
- Khả năng tổng hợp vitamin của thủy sản giới hạn nên chúng lệ thuộc
rất nhiều vào nguồn cung cấp từ thức ăn.
Nhu cầu năng lượng cho tôm cá thường được tính như mức năng lượng cần
thiết theo % trọng lượng cơ thể trong 24 giờ, nhằm đáp ứng cho duy trì, tăng
trưởng và các hoạt động sản xuất khác .
193
Theo Brett (1969) và Elliot (1975) tùy mức độ đáp ứng nhu cầu có thể có các
khẩu phần ăn - khẩu phần tối ưu, khẩu phần tối đa và khẩu phần tối thiểu.
Khẩu phần ăn tối ưu là khẩu phần ăn được cá sử dụng có hiệu quả cao với hệ
số thức ăn thấp. Khẩu phần ăn tối đa là khẩu phần ăn cung cấp cho cá một
lượng thức ăn thích hợp nhất cả về chất và lượng đáp ứng khả năng tăng
trưởng cao nhất. Khẩu phần ăn tối thiểu là khẩu phần ăn nhằm cung cấp cho
cá nhằm duy trì hoạt động sống mà không có ý nghĩa về mặt tăng trưởng.
Nhu cầu duy trì
Đáp ứng cho chuyển hóa cơ bản, tiêu hóa hấp thu, hoạt động cơ và sự thay cũ
đổi mới trong cơ thể. Những kết quả nghiên cứu thực nghiệm về năng lượng
chuyển hóa cơ bản cho thấy tôm cá đang lớn cần khoảng 230 kcal/kg thể
trọng, tôm cá trưởng thành cần 68 kcal/kg thể trọng. Nhu cầu này tùy thuộc
giống loài, giới tính, giai đoạn tăng trưởng và tình trạng sức khỏe. Năng lượng
tiêu hao tổng thể cả ngày khoảng 145% năng lượng chuyển hóa cơ bản (10%
cho tiêu hóa hấp thu, 25% cho các hoạt động bơi lội và 20% cho một số hoạt
động bất thường). Carbohydrate là nguồn năng lượng rẻ nhất, lipid có giá trị
năng lượng cao nhất, protein là nguồn năng lượng mắc nhất.
Nhu cầu tăng trưởng
Cho cá, tôm nhỏ và giai đoạn nuôi thịt. Ở tôm cá nhỏ cơ quan tiêu hóa chưa
hoàn thiện và phải trải qua các giai đoạn biến thái (tôm) cho nên yếu tố thức
ăn là quan trọng nhất quyết định đến tỷ lệ sống và chất lượng con giống. Nếu
không có những thức ăn nhân tạo thật tốt thì cho ăn thức ăn tự nhiên là tuyệt
đối cần thiết.
Nhu cầu sinh sản
Sự phát triển của tuyến sinh dục có quan hệ chặt chẽ với chế độ dinh dưỡng.
Kỹ thuật nuôi vỗ hợp lý có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ thành thục, tỷ lệ cá đẻ,
tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở và tỷ lệ sống của cá con. Đối với cá chế độ nuôi vỗ
được chia thành 2 giai đoạn nuôi vỗ tích cực và giai đoạn nuôi vỗ thành thục.
Giai đoạn nuôi vỗ tích cực: thời kỳ này cá bố mẹ được vỗ béo tích cực để tích
lũy vật chất dinh dưỡng, hình thành các sản phẩm sinh dục, buồng trứng phát
triển từ đầu giai đoạn đến cuối giai đoạn 4. Lúc này chất dinh dưỡng được
hấp thu từ thức ăn được tích lũy vào gan và các mô mỡ.
Ở giai đoạn nuôi vỗ thành thục khẩu phần ăn sẽ giảm xuống. Mục đích của
giai đoạn này là tạo điều kiện thúc đẩy quá trình thành thục. Biện pháp tổng
hợp là tăng cường kích thích nước tạo dòng chảy nhằm tiêu hao bớt lượng mỡ
dự trữ trong cơ thể cá. Đảm bảo lượng oxy hòa tan luôn ở mức cao. Đây là
thời kỳ chất dinh dưỡng được tích lũy trong gan và mô mỡ. Dưới sự điều
khiển của 1 số hormon đặc hiệu, chuyển hóa các chất dinh dưỡng này vào
194
tuyến sinh dục để hình thành noãn bào, kết thúc quá trình tích lũy noãn hoàng,
noãn bào đạt tới kích thước tới hạn.
Nhu cầu dưỡng chất
Nói chung nhu cầu dinh dưỡng của tôm cá tương đương với các động vật khác
gồm protid, lipid, carbohydrate ( là chất cung cấp năng lượng và vật liệu xây
dựng cơ thể ), khoáng, vitamin và những chất khác ( là những chất điều hòa sự
sống ). Sự thiếu hoặc thừa của những dưỡng chất này có thể làm giảm tốc độ
tăng trưởng và khả năng kháng bệnh của động vật.
Protein và amino acid (chất đạm)
Chất đạm là nhu cầu quan trọng của tất cả các sinh vật để duy trì và phát triển
cơ thể. Đối với cá nhu cầu protein cần thiết cho hoạt động sống tùy thuộc vào
loài, các giai đoạn sinh trưởng, môi trường sống (Lovell,1972) hàm lượng
protein thích hợp trong thức ăn đóng vai trò rất quan trọng bởi lẽ hàm lượng
này thấp hay cao hơn nhu cầu của cơ thể đều có thể gây ra các tác hại như
tăng trưởng chậm, không bình thường hay dễ mẫn cảm với mầm bệnh (Tacon,
1995).
Protein được cần với số lượng lớn nhất cho duy trì (thay thế các tổ chức), tăng
trưởng và thành lập các hoạt chất sinh học. Protein bao gồm những nhóm chất
hữu cơ chính trong cơ thể động vật (trên cơ bản vật chất khô). Nhu cầu protein
và acid amin được xem xét trên 3 phương diện :
-Nhu cầu số lượng acid amin phải đủ về chất (10 acid amin thiết yếu) và cân
bằng về lượng (acid amin giới hạn như lysine và methionin).
-Sự biến dưỡng acid amin (tỷ lệ tiêu hóa hay giá trị sinh học của protein).
-Tỷ lệ năng lượng protein so với năng lương tổng cộng trong thức ăn (năng
lượng của carbohydrate, lipid và protein trong thức ăn).
Mục đích nuôi tôm cá là biến protein thức ăn thành protein của cơ thể tôm cá.
Tôm cá có đặc điểm ưu thế về mô cơ nên yêu cầu lượng protein trong thức ăn
cao hơn các động vật nuôi khác.
Nhu cầu lipid và acid béo (chất béo)
Lipid trong khẩu phần ăn có 2 nhiệm vụ chính: là nguồn năng lượng thiết yếu
và nguồn các acid béo (gồm các acid béo chưa no). Cùng với carbohydrate,
lipid tạo nguồn năng lượng cho hoạt động của tôm cá. Nếu thức ăn có năng
lượng quá thấp, tôm cá sẽ sử dụng protein làm năng lượng cho hoạt động (tốn
protein, đắt tiền). Nếu năng lượng trong thức ăn quá cao sẽ làm giảm lượng
thức ăn lấy vào, lượng protein cũng sẽ giảm theo làm sinh trưởng kém đi.
Nhu cầu glucid (Carbohydrate, bột đường).
Glucid là một thành phần thức ăn chủ yếu và rất quan trọng đối với tôm cá ăn
thực vật và ăn tạp. Glucid được sử dụng trước hết nhằm thỏa mãn nhu cầu
năng lượng. Cá và tôm khác nhau về khả năng tiêu hóa carbohydrate, tôm
dường như có khả năng sử dụng tinh bột hiệu quả hơn so với các loại đường
195
đơn, trái ngược với cá. Tuy nhiên do có khả năng kết dính và là nguyên liệu
rẻ tiền nên tinh bột thường được sử dụng trong thức ăn cho thủy sản.
Vitamin và khoáng
Bộ xương cá và vỏ tôm do nhiều nguyên tố khoáng tạo thành nhưngthành
phần chủ yếu là Ca và P. Tỷ lệ Ca và P có tầm quan trọng đặc biệt về
phương diện hấp thu 2 chất này. Mặt khác thức ăn cần có đủ vitamin D để
giúp gia tăng hấp thu Ca và huy động Ca vào máu đưa đến các tổ chức của cơ
thể.
Vitamin là hợp chất hữu cơ quan trọng trong dinh dưỡng động vật. Vitamin
tham gia vào hệ thống enzym và biến dưỡng cho những nhiệm vụ khác nhau
giúp cơ thể kháng bịnh. Vitamin nhóm B cần thiết cho việc sử dụng chất đạm,
béo, đường. Các vitamin khác như A, C giúp cơ thể kháng bịnh.
Tất cả các chất dinh dưỡng cấu thành trong thức ăn có mối tương tác rất chặt
chẽ với nhau và được cơ thể sử dụng đồng thời. Do vậy điều quan trọng là tất
cả các chất dinh dưỡng kể trên phải có lượng và chất đầy đủ trong thức ăn.
3. Nhu cầu dinh dưỡng và thức ăn cho tôm sú
Nhu cầu về những thành phần dinh dưỡng chính cần thiết cho tôm sú là cơ sở
để thiết lập công thức thức ăn cho tôm ở các giai đoạn khác nhau (tôm ấu
trùng, tôm giống, bố mẹ).
Protein là yếu tố quan trọng hàng đầu trong thức ăn tôm. Tôm ấu trùng cần
các loại thức ăn có hàm lượng protein cao, khoảng 50% (Bautista và ctv,
1989), trong thực tế chúng cần tảo, artemia là những thức ăn giàu protein để
tăng trưởng và tồn tại.
Nhu cầu protein của tôm giống khoảng 40% (Alava, 1983) ở tôm bố mẹ nhu
cầu này là 50 –53% protein (Millamena, 1986). Ơû tôm thịt nhu cầu protein
khoảng 35 -37%.
Thức ăn có hàm lượng protein 40-50%, 20% carbohydrate, 50% chất béo cho
tỷ lệ sống cao và tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (Bautista, 1986) theo Nezaki,
1986 khẩu phần có 55% protein và 15% carbohydrate giúp tôm tăng trưởng rất
tốt, tuy nhiên nếu tăng hàm lượng carbohydrate lên 25%, giảm hàm lượng
protein xuống 45% thì kết quả tăng trưởng của tôm vẫn tương đương, điều này
cho thấy carbohydrate có vai trò dự trữ protein ngoài việc cung cấp năng
lượng.
Trong thành phần thức ăn của tôm cần có các acid amin thiết yếu với một tỷ
lệ cân đối tương tự như trong cơ thịt của tôm thì tôm sẽ tăng trọng nhanh,
chuyển hóa tốt thức ăn. Các nguyên liệu bột mực, bột tôm, bột cá, bột đậu
nành có chứa protein giá trị dinh dưỡng cao, thường dùng làm nguyên liệu sản
xuất thức ăn cho tôm ; đối với thức ăn cho tôm bố mẹ bột mực, bột tôm được
coi là nguyên liệu tuyệt hảo. Lysin và methionin là 2 acid amin được chú ý
nhiều khi đánh giá giá trị dinh dưỡng của thức ăn tôm (bột thịt, bột sữa, trứng,
196
các loại đậu giàu lysin. Bắp, ngũ cốc giàu methionin). Nhu cầu của một số
acid amin thiết yếu đối với tôm sú (tính theo % so với protein) theo Millamena
là arginin 4,6%; lysin 5,4%; threonine 3,2%.
Chất béo và các acid béo
Chất béo là nguồn cung cấp năng lượng, là dung môi tốt cho các vitamin A, D,
E, K. Chất béo rất quan trọng và cần thiết đối với tôm : các acid béo không
no thiết yếu (HUFA, PUFA), phospholipid, steroid. Chất béo tạo hương vị hấp
dẫn cho thức ăn tôm cá. Trong thức ăn tôm phối trộn bằng những nguyên liệu
thông thường đã đảm bảo hơn ½ chất béo khẩu phần, phần còn lại được bổ
sung bằng các nguyên liệu có nguồn gốc từ động vật biển : dầu gan cá, dầu
mực. Một phần chất béo còn được tôm tổng hợp từ carbohydrate và một phần
từ protein. Nhu cầu chất béo cho tôm ấu trùng và tôm bố mẹ 12 - 15%, tôm
giống 8 - 12%. Thành phần chính của chất béo là các acid béo : CH3-(CH2)n-
COOH (n=024) (acid béo có 2 nối đôi trở lên : PUFA, có 4 nối đôi trở lên :
HUFA). Các acid béo không no thiết yếu đối với tôm sú là 20 :5n-3; 22 :6n-3
(tôm sú cũng như cá và các loài giáp xác không tự tổng hợp được acid béo
thuộc nhóm n-3 và n-6 từ những nguồn không phải là chất béo, do vậy bắt
buộc phải bổ sung các chất tiền thân của chúng vào thức ăn. Bổ sung các acid
béo không no thiết yếu nhóm n-3, n-6 vào thức ăn cần theo 1 tỷ lệ thích hợp.
Đối với tôm, các nghiên cứu cho thấy nhu cầu acid béo thiết yếu là HUFA
thuộc nhóm n-3 : 2,6%; 18:2n-6 <5%. Đối với tôm ấu trùng các HUFA cần
thiết cho sự tăng trưởng và thúc đẩy quá trình biến thái nên trong các thức ăn
cho ấu trùng cần phải cung cấp đầy đủ các acid béo này để đảm bảo tôm phát
triển tốt và đạt tỷ lệ sống cao.
Phospholipid có vai trò quan trọng giúp tôm phát triển tốt, tỷ lệ sống cao. Dầu
mỡ của động vật sống ở biển rất giàu phospholipid (dầu mực chứa tới 35-50%
phospholipid). Lecithin đậu nành là nguồn cung cấp phospholipid tương đối rẻ
tiền hữu hiệu.
Nhu cầu phospholipid của tôm thịt là 2%,nếu phospholipid là lecithin
(phosphatidyl choline) thì chỉ cần 1-2% ; trong trường hợp phosphol