Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, với sự nỗ lực phấn đấu của các tổ chức, đơn vị kinh tế và toàn thể nhân dân, sự hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ của các quốc gia, tổ chức kinh tế quốc tế, nền kinh tế nước ta đã có những khởi sắc, tiến bộ mới, từng bước phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn. Chúng ta đã và đang cố gắng nâng cao sức mạnh tốc độ tăng trưởng, hiệu quả của nền kinh tế để dần dần theo kịp hoà nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
18 trang |
Chia sẻ: diunt88 | Lượt xem: 2908 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đồ án Bản chất, đặc điểm và các hình thức tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu.
Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, với sự nỗ lực phấn đấu của các tổ chức, đơn vị kinh tế và toàn thể nhân dân, sự hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ của các quốc gia, tổ chức kinh tế quốc tế, nền kinh tế nước ta đã có những khởi sắc, tiến bộ mới, từng bước phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn. Chúng ta đã và đang cố gắng nâng cao sức mạnh tốc độ tăng trưởng, hiệu quả của nền kinh tế để dần dần theo kịp hoà nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, xét từ mục tiêu, đường lối phát triển nền kinh tế nước ta (theo quan điểm của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX) từ thực tiễn sự phát triển mạnh mẽ và rất năng động của nền kinh tế thế giới trong đó nhất là khu vực Châu á - Thái bình dương, gần nhất là khu vực Đông Nam Châu á, chúng ta nhận thấy rằng so với mục tiêu đặt ra và thực trạng nền kinh tế khu vực cũng như thế giới, nền kinh tế nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải có sự phấn đấu vượt bậc, bảo đảm phát triển vững chắc tuần tự và kết hợp có những bước đột phá, nhảy vọt, "đi tắt đón đầu"... mới có thể đạt được kết quả như mong muốn. Quá trình đó cần quán triệt theo mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 mà mục tiêu tổng quát là "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao" (Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, trang 89 - 90). Để đạt được mục tiêu ấy, từ xuất phát điểm nền kinh tế nước ta hiện nay, trong bối cảnh chung xu hướng vận động của nền kinh tế khu vực và thế giới đòi hỏi chúng ta phải tìm ra và ứng dụng nhiều giải pháp đồng bộ và có tính hệ thống và khả thi, nhiều "đòn bẩy kinh tế" với những biện pháp cụ thể hữu hiệu, thiết thực hơn. Trong đó, hiện nay một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là phải tăng cường nguồn vốn nhằm chuyển giao, áp dụng công nghệ tiên tiến, mở rộng quy mô sản xuất phát huy nội lực, phát triển kinh tế đất nước, nâng cao năng lực xuất khẩu, cạnh tranh, hợp tác, tích cực tham gia hoà nhập, thích ứng quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới... Để tăng cường nguồn vốn đầu tư cho nền sản xuất có nhiều biện pháp khác nhau, đa dạng và phong phú, trong đó một biện pháp rất quan trọng là nâng cao khả năng của hoạt động tín dụng. Về mặt lý luận kinh tế cũng như thực tiễn phát triển nền kinh tế nước ta và thế giới từ trước đến nay, đặc biệt trong tình hình kinh tế thế giới, khu vực, nước ta những năm gần đây cho thấy tín dụng ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN nói riêng. Bởi vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề bản chất, chức năng, hình thức của tín dụng và vai trò của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là việc làm cần thiết, bổ ích trước hết là với những người học tập về khoa học kinh tế, những nhà quản lý, hoạt động trong lĩnh vực kinh tế.
I. Bản chất, đặc điểm và các hình thức tín dụng.
1.1. Tín dụng hình thành, phát triển là một tất yếu khách quan.
Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội loài người cũng phát triển theo các hình thái kinh tế khác nhau. ở mỗi giai đoạn, thời đại kinh tế đó do đặc điểm về năng lực của nền kinh tế nên ở xã hội cộng sản nguyên thủy do lực lượng sản xuất kém phát triển, xã hội không có của dư, sản phẩm do con người làm ra chưa đủ tích lũy, quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở cộng đồng mọi sản phẩm đều là của chung, con người hoàn toàn dựa vào nhau, chung sống, tư hữu chưa ra đời... Do đó chưa xuất hiện quan hệ mua bán, trao đổi.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất sau đó đã tạo điều kiện tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, con người không chỉ đủ tiêu dùng mà dần dần còn có tích lũy, dự trữ xuất hiện của dư. Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, của công cụ lao động chế độ tư hữu dần dần xuất hiện, sự phân hoá giữa người giàu người nghèo và các tầng lớp, giai cấp, các giai cấp cũng theo đó phát triển ngày càng rõ rệt. Quan hệ trao đổi, mua bán, vay mượn cũng từng bước xuất hiện với nhiều hình thức đa dạng phong phú. Tuy nhiên quan hệ vay mượn thời kỳ đầu chỉ là hình thức sơ khai, phôi thai của tín dụng sau này.
Khi sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định nhu cầu mua bán, trao đổi, vay mượn tăng lên, xuất hiện tiền tệ (một loại hàng hoá đặc biệt vật trung gian trong trao đổi mua bán, một loại của cải để tích trữ...), xã hội dần dần xuất hiện quan hệ tín dụng. Sự tồn tại và phát triển quan hệ tín dụng do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một là trong quá trình sản xuất kinh doanh do sự vận động của vốn tiền tệ dẫn đến nảy sinh hiện tượng trong cùng một thời gian có những đơn vị kinh tế thừa vốn để sản xuất kinh doanh, chưa có nhu cầu sử dụng. Ngược lại có những đơn vị thiếu vốn, có nhu cầu vay mượn tăng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Tình trạng đó nảy sinh mâu thuẫn đỏi hỏi có cách thức giải quyết mở đường cho sản xuất phát triển. Do vậy cần có sự tập trung vốn, phân phối lại các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi theo nguyên tắc vay mượn hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định, bảo đảm quá trình tái sản xuất, tuần hoàn, xoay vòng của nguồn vốn được diễn ra liên tục nâng cao khả năng sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được nguồn vốn ...
- Hai là: Trong đời sống sinh hoạt, vận động của toàn xã hội có tình trạng có những cơ quan, đơn vị, tổ chức tập thể và trong nhân dân (cá nhân, hộ gia đình ...) thường xuyên có lượng tiền nhàn rỗi chưa cần sử dụng ngay. Đây cũng là một điều kiện, cơ sở tiềm tàng dẫn đến nảy sinh quan hệ tín dụng bởi lẽ không có những lượng tiền nhàn rỗi đó thì không có cơ sở để thực hiện quan hệ tín dụng.
- Ba là do chế độ sở hữu về vốn trong nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần nền kinh tế thị trường, do tồn tại nhiều thành phần kinh tế - nhiều hình thức sở hữu khác nhau về vốn songl ại đòi hỏi có sự chuyển hoá trong nội bộ của các hình thức sở hữu và giữa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế. Tuy nhiên để việc chuyển vốn giữa các hình thức sở hữu các thành phần kinh tế và không làm ảnh hưởng, không xâm phạm đến quyền lợi của nhau giữa các chủ sở hữu cần phải thông qua quan hệ tín dụng có vay có trả theo thoả thuận nhất định mà bên cho vay khi nhận lại số tiền cho vay ngoài phần gốc còn được thêm một số tiền lãi theo tỷ lệ quy định. Nhờ đó mà quyền lợi của các chủ sở hữu khác nhau khi tham gia quan hệ tín dụng được đảm bảo một cách chặt chẽ, theo một quy tắc thống nhất, với sự bảo đảm có tính pháp lý, pháp luật.
- Bốn là do yêu cầu của quá trình hạch toán kinh tế trong sản xuất, kinh doanh rất chặt chẽ, cụ thể chi tiết nên các đơn vị, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp phải luôn chủ động, thận trọng trong tính toán huy động, chuẩn bị tạo nguồn vốn nắm chắc nguồn vốn cũng như sử dụng vốn kể cả vốn cố định và lưu động. Tính toán cân nhắc, xác định đúng về nhu cầu vốn của mình trong sản xuất kinh doanh đảm bảo lấy thu bù chi và có lãi. Chính việc đi vay và cho vay thông qua quan hệ tín dụng các đơn vị tổ chức kinh tế... giải quyết được vấn đề nhu cầu về vốn, sử dụng vốn.
Từ những vấn đề trình bày ở trên có thể đi đến khẳng định rằng sự hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng hoạt động tín dụng trong quá trình phát triển của sản xuất của nền kinh tế là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật.
1.2. Bản chất, đặc điểm của tín dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
* Bản chất của tín dụng.
Từ sự phân tích quá trình hình thành, phát triển của tín dụng, qua nghiên cứu chúng ta có thể thấy rằng tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, là hình thức vận động của vốn cho vay. Tín dụng phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả vốn gốc lẫn lợi tức.
Bản chất tín dụng biểu hiện ở quá trình vận động của tín dụng trong nền kinh tế thị trường thể hiện thông qua các giai đoạn sau:
ở giai đoạn cho vay: vốn tiền tệ được chuyển từ người cho vay sang người đi vay. Khi đó giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay.
ở giai đoạn sử dụng vốn tín dụng trong quá trình sản xuất, người đi vay được quyền sử dụng giá trị của vốn tín dụng vốn vay được sử dụng trực tiếp để mua hàng hoá (nếu vay bằng tiền) hoặc được sử dụng trực tiếp (nếu vay bằng hàng hoá) để thoả mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của người đi vay. Song người đi vay không có quyền sở hữu giá trị của vốn vay mà chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định theo thoả thuận giữa người cho vay và người đi vay.
ở giai đoạn: hoàn trả tín dụng - kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Vốn tín dụng sau khi đưa vào sản xuất trở về hình thái tiền tệ - vốn, được người đi vay trả lại cho người vay gồm phân gốc và lãi (lợi tức). Như vậy vốn đưa vào hoạt động tín dụng đã sinh lợi cho người sở hữu nó. Quá trình này về thực chất theo C. Mác khi phân tích nền kinh tế TBCN đã chỉ rõ: "Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải bỏ ra để thanh toán hay không phải tự ta bán đi để cho vay. Tiền chỉ đem nhượng lại với một điều kiện là nó sẽ quay về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định" (C.Mác tư bản quyền III, tập II, NXB Sự thật, Hà Nội, 1978). Rõ ràng rằng ở đây sự hoàn trả tín dụng là sự quay trở về của giá trị. Đó là sự vận động của một lượng giá trị. Sự hoàn trả theo đúng nghĩa của nó luôn được bảo toàn về mặt giá trị và cộng với phần tăng thêm (lợi tức). Như vậy "Đem tiền cho vay với tư cách là một vật có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ nguyên vẹn giá trị của nó, đồng thời lớn thêm trong quá trình vận động" (Theo C.Mác sách đã dẫn).
Vấn đề trình bày ở trên đã làm rõ bản chất tín dụng. Bên cạnh đó, là một phạm trù của kinh tế hàng hóa, gắn với nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường nên tín dụng tồn tại trong nhiều nền kinh tế hàng hoá, không tính đến chế độ chính trị xã hội ở đó. Tuy nhiên, tồn tại trong những phương thức sản xuất xã hội khác nhau thì tín dụng cũng mang bản chất khác nhau do bản chất chế độ chính trị xã hội đó chi phối. Riêng đối với nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (như nước ta hiện nay), các ngân hàng Nhà nước khi cho vay tiền cũng đều theo quy luật chung của hoạt động này: có vay, có trả, có lợi thế, song chúng ta không chỉ vì mục đích thu lợi tức mà còn vì mục đích chủ yếu là để thúc đẩy nền sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đồng thời từng bước thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Ngược lại ở chế độ tự bản chủ nghĩa mục đích chủ yếu trên hết của những chủ thể sở hữu - của người cho vay là nhằm thu lợi tức - càng nhiều càng tốt (dĩ nhiên là ngoài việc thu hồi đủ vốn gốc). Nơi nào, tổ chức, đơn vị kinh tế, cá nhân nào vay với lãi suất cao hơn thì họ sẽ tập trung đầu tư cho vay nhiều hơn, thuận lợi hơn....mà xem nhẹ mục đích sử dụng vốn vay, không quan tâm nhiều đến việc người đi vay sử dụng vốn vay vào mục đích gì, hoặc có chăng cũng chỉ nhằm thu được nhiều lợi tức, hoặc vì mục đích của số ít vì lợi ích của giai cấp tư sản...
Chính vì tín dụng trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta có bản chất tốt đẹp, tiến bộ, tích cực như vậy cho nên nó tạo điều kiện, cơ sở, thuận lợi và động lực mạnh mẽ đẩy mạnh, mở rộng hoạt động tín dụng, nâng cao vai trò, hiệu quả của tín dụng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
II. Các hình thức của tín dụng.
1. Đặc điểm và các hình thức tín dụng.
Sự cần thiết của tín dụng trong nền kinh tế hàng hoá được quyết định bởi đặc điểm sản xuất hàng hoá, bởi sự phát triển của chức năng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Quan hệ tín dụng ra đời bắt nguồn từ đặc điểm chu chuyển vốn trong các doanh nghiệp mà trong từng thời điểm thường xuyên có một bộ phận vốn nhàn rỗi cần được sử dụng để sinh lời. Chẳng hạn, vốn dùng để trả lương nhưng chưa đến kỳ trả, vốn mua nguyên liệu nhưng chưa đến kỳ mua....Trong khi đó, một số doanh nghiệp khác muốn có vốn để thanh toán, để mở mang doanh nghiệp nhưng chưa tích luỹ kịp. Tương tự như vậy, trong dân cư và trong tổ chức xã hội cũng có số tiền nhãn rỗi. Rõ ràng cùng trong một thời điểm, nơi thì có vốn nhưng chưa cần sử dụng, nơi thì cần số vốn nhưng lại chưa có. Quan hệ tín dụng cần và có thể ra đời từ điều kiện kinh tế đó.
Quan hệ tín dụng tồn tại trong nhiều nền kinh tế hàng hoá. Nhưng tồn tại trong các phương thức sản xuất xã hội khác nhau thì tín dụng cũng mang những bản chất khác nhau. Trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các ngân hàng nhà nước khi cho vay tiền đều phải thu lợi tức, có vay có trả nhưng không chỉ vì mục đích thulợi tức mà còn chủ yếu vì để phát triển mạnh mẽ nền sản xuất xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Quan hệ tín dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,ngoài đặc điểm chung là quyền sở hữu vốn tách rời quyền sử dụng vốn, còn có đặc điểm lớn là: nhiều quan hệ tín dụng khác nhau với những nguồn lợi tức khácnhau phản ánh nền kinh tế nhiều thành phần. Các quan hệ tín dụng này vừă hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị tửờng có sự quảnlý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là lĩnh vực đấu ranh gay gắt, đòi hỏi quan hệ tín dụng nhà nước phải không ngừng lớn mạnh để đảm nhiệm vai trò chủ đạo trong quan hệ tín dụng toàn xã hội.
2. Quan hệ tín dụng tồn tại dưới các hình thức:
- Tín dụng thương mại là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ bằng cách cho chịu tiền với kỳ hạn nhất định và lợi tức nhất định.
Tín dụng thương mại không chỉ có trong quan hệ mua - bán lớn mà còn có ngay cả trong tiêu dùng, nói cách khác, nó cũng gắn liền với hình thức tín dụng tiêu dùng, một hình thức không chỉ bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng, mà còn có lợi cho người sản xuất. Bởi vậy, tín dụng thương mại là một hình thức không thể thiếu trong kinh tế thị trường.
- Tín dụng ngân hàng
Đây là hình thức tín dụng rất quan trọng và là quan hệ tín dụng chủ yếu giữa ngân hàng và các doanh nghiệp. Nó là hình thức mà các quan hệ tín dụng được thực hiện thông qua vai trò trung tâm của ngân hàng. Nó đáp ứng phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân. Theo đà phát triển của nền kinh tế, hình thức tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành hình thức chủ yếu không chỉ ở trong nước mà còn trên trường quốc tế.
Tuỳ theo cách phân chia khác nhau, tín dụng ngân hàng có các loại khác nhau. Nếu phân chia theo thời gian thì có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn (trên 1 năm và dưới 5 năm) và tín dụng dài hạn (trên 5 năm). Nếu phân chia theo đối tượng đầu tư của tín dụng thì có tín dụng vốn lưu động, tín dụng vốn cố định.
3. Chức năng của ngân hàng Thương mai
- Chức năng trung gian tài chính:
Huy động vốn tạm thời nhãn rỗi phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã hội. Với chức năng này, nó có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phát triển thêm việc làm, cải thiện mức sống dân cư, ổn định chỉ tiêu của Chính phủ và góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá và vòng quay của đồng tiền thúc đẩy qúa trình phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá, gián tiếp điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đối nội, kìm chế lạm phát, mặt khác, nhờ chức năng này, lưu thông tài chính huy động và cho vay mà ngân hàng có được nguồn thu để bù đắp chi phí trả lãi tiền gửi, chi phí kinh doanh và có lãi. Điều này quyết định đến sự phát triển và lớn mạnh không ngừng của chính bản thân các ngân hàng thương mại.
- Chức năng trung gian thanh toán.
Hàng ngày nền kinh tế xuất hiện hàng loạt các quan hệ giao dịch với khối lượng thanh toán rất lớn. Nếu tài khoản thanh toán đều dùng tiền mặt trực tiếp sẽ dẫn đến các chi phí thanh toán rất tốn kém như in ấn, vận chuyển, đếm, người bảo quản tiền...
Nhưng với sự ra đời của ngân hàng thương mại với chức năng thanh toán, thì các khoản giao dịch trên được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng với hình thức thanh toán thích hợp, thủ tục đơn giản và kinh tế ngày càng hiện đại như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc, thư tín dụng...từ đó làm cho nhu cầu chi trả tiền mặt ngày càng nhanh, tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí cho xã hội. Với chức năng này, ngân hàng đã góp phần thực hiện nhanh chóng các khoản thanh toán, làm nhanh tốc độ luân chuyển vốn, giảm số lượng tiền mặt in lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt. Đồng thời chức năng này huy động tối đa nguồn vốn của cá nhân, doanh nghiệp để dành cho đầu tư và phát triển. Qua đó, các ngân hàng thương mại giám sát lưu thông luật tài chính, kiểm soát được luồng lưu thông tiền tệ.
- Ngân hàng thương mại là cỗ máy tạo tiền của nền kinh tế: quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở tiền gửi xã hội. Ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản giữa các ngân hàng. Sức tạo tiền của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa, tỷ lệ giữa lượng tiền lưu thông ở hệ thống ngân hàng và thế giới của xã hội phát triển trong hệ thống ngân hàng.
- Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh, do đó nó có các hoạt động đầu tư và kinh doanh để kiếm lời, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại có thể có các biện pháp can thiệp để kiểm soát sự phát triển bền vững của thị trường tài chính là nơi để Chính phủ vận hành các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng.
- Tín dụng Nhà nước
Tín dụng Nhà nước là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế trong nước, giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế trong nước, giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, giữa Nhà nước với chính phủ các nước khác...
Hình thức này được thực hiện thông qua việc Nhà nước phát hành công trái bằng thóc, bằng vàng, bằng tiền để vay dân khi ngân sách nhà nước thiếu hụt.
Tính hiệu quả của hình thức tín dụng nhà nước phụ thuộc vào việc thực hiện đúng đắn nguyên tắc tự nguuyện và cũng có lợi giữa Nhà nước và người mua công trái. Muốn vậy phải đảm bảo lãi suất tín dụng nhà nươc phù hợp với lãi suất tín dụng ngân hàng, thời gian trả phải đảm bảo đúng thời hạn và ghi trên công trái, phương thức thanh toán đơn giản, thuận tiện cho người mua công trái.
- Tín dụng tập thể
Tín dụng tập thể là hình thức tự nguyện góp vốn của các thành viên cho nhau vay hoặc để cùng nhau kinh doanh tín dụng. Nó tồn tại dưới hình thức tổ chức như các hiệp hội tín dụng, hợp tác xã tín dụng...Tín dụng tập thể là hình thức có vai trò bổ sung cho tín dụng ngân hàng về huy động và cho vay chủ yếu ở nông thôn.
ở nước hợp tác xã tín dụng được thành lập từ năm 1956 và trở thành phổ biến vào những năm 1960, có tác dụng một thời trong phong trào hợp tác hoá. Song, do hoạt động theo cơ chế hành chính bao cấp, nó chỉ là "chân rết" của ngân hàng, nên đã bị hạn chế tác dụng và tan rã. Từ khi có Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương về khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp, trong nông thôn đã xuất hiện mạnh mẽ nhu cầu về tín dụng. Năm 1982, các hợp tác xã tín dụng được khôi phục lại. Các quỹ tín dụng nhân dân và các hình thức tín dụng hệ thống ngân hàng, mà đỉnh cao là năm 1988 và đầu 1989. Chẳng bao lâu, hàng loạt những tổ chức tín dụng đó bị đổ vỡ, mất khả năng thanh toán và chi trả, đã gây rối loạn về kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Hậu quả trên do nhiều nguyên nhân, song trước hết phải kể đến sự thiếu thế chấp pháp lý hoàn chỉnh, t