Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niêm gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường. Các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan.
23 trang |
Chia sẻ: diunt88 | Lượt xem: 3766 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Lạm phát và biện pháp khắc phục ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niêm gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường. Các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. ở nước ta hiện nay, chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án khắc phục. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hoá đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thể kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. ở nước ta lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế - xã hội.
Bài viết này với đề tài:"Lạm phát và biện pháp khắc phục ở Việt Nam"
Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lượng kiến thức còn hạn chế, em thiết nghĩ quan tâm nghiên cứu đến đề tài cũng là một phương pháp tìm hiểu nó một cách thấu đáo, sâu sắc hơn.
I/ Lý luận chung về lạm phát:
1. Khái niệm và phân loại lạm phát:
a. Các khái niệm:
- Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. ở đâu còn sản xuất hàng hoá , còn tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm.
- Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
- Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : "Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian"
- Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/ GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = (ip.d
ip: chỉ số giá cả của từng loại nhóm hàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng.
b) Phân loại lạm phát:
- Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn...
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
- Lạm phát phi mã: lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế , các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát: xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xẩy ra.
Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại.
Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dướ 50% một năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
2. Nguyên nhân lạm phát:
a) Lạm phát theo thuyết tiền tệ: kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá... có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách.
- Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền.
- Theo học thuyết Keynes, lạm phát xẩy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo).
- Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí đẩy)
Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau.
Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền.
Tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách:
- Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh doanh tốt). hoặc
- Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng
Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng.
Ví dụ:
Năm 1966 - 1967 chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm phát tăng từ 3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970).
Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này.
b) Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo):
Tăng cung tiền không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo được ra đời từ đó. Chẳng hạn ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng.
c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy:
Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ" Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn.
Ví dụ:
Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo thành vòng xoáy lượng giá.
Một yếu tố chi phí chính khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô. Trong năm 1972 - 1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới.
Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy.
Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng... Song nguyên nhân trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá.
Lạm phát dự kiến:
Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều một cách ổn định. Mọi người thể dự kiến được trước nên còn gọi là lạm phát dự kiến.
Trong lạm phát dự kiến AS & AD dịch chuyển lên trên cùng, độ sản lượng vẫn giữ nguyên, giá cả tăng lên theo dự kiến.
Các nguyên nhân khác:
Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ tiền gửi vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá và tiếp tục đẩy giá lên cao.
Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trại, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân thông qua bán tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc chắn.
Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài.
Những tác động của lạm phát:
Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó.
* Đối với lĩnh vực sản xuất:
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
* Đối với lĩnh vực lưu thông:
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
* Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàn bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
* Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước:
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
1. Thực trạng:
Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của công tác quản lý kinh tế vĩ mô là việc tìm kìm chế lạm phát. Thực ra không phải 10 năm gần đây lạm phát mới xuất hiện ở Việt Nammà từ năm 1980 trở về trước, lạm phát cũng đã tồn tại, chỉ có điều biểu hiện của nó không công khai, các nghị quyết của đảng cộng sản Việt Nam, đại hội V trở về trước không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ dùng cụm từ "Chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và tiền...."; "Thị trường vật giá không ổn định..."
Lạm phát ở thời kỳ này là "Lạm phát ngầm" nhưng chỉ số giá cả ở thị trường tự do thì tăng cao, vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng cũng như thu nhập quốc dân.
Sau một thời kỳ "ủ bệnh" đã bộc phát thành lạm phát công khai với mức lạm phát phi mã cũng tăng giá ba chữ số. Đảng đã kịp thời nhận định tình hình này.
"Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt qua nguồn thu. Việc sử dụng vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát trầm trọng".
Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ, chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các cấp các ngành vì sự phát triển và ổn định. Cho tới nay, Việt Nam đã thành công về phương diện này. Lạm phát đã giảm từ hơn 700% một năm vào năm 1986 xuống chỉ còn 35% vào năm 1989. Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, người dân không còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền trong nước, xuất khẩu dầu thô ngày càng tăng. Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 70% năm.
2. Lịch sử của lạm phát:
- Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được hiểu giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm tòi mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông.
- Thời kỳ 1938 - 1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và sau đó để nuôi mấy chục vạn quân nhận bán Đông Dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ 1939 - 1945 bình quân 25 lần.
- Thời kỳ 1946 - 1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phòng hoàn toàn nửa đất nước.
- Thời kỳ 1955 - 1965: Chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền Miền Nam để bù đắp lại cuộc chiến tranh chống laị phong trào giải phóng dân tộc ở Miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp lại chi phí.
Nguyễn Văn Thiệu - Chính phủ đã lạm phát hàng trăm tỷ đồng tiền lưu thông ở miền Nam năm 1975 gấp 5 lần. Năm 1969 lên tới 600 triệu đồng, giá sinh hoạt tăng hàng trăm lần so với năm 1965.
- Thời kỳ 1965 - 1975:
ở miền Bắc Việt Nam chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại ở Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân, đánh thắng độc quân xâm lược ở Mỹ và tay sai ở cả hai miền. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này.
- Thời kỳ 1976 đến nay: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế thời chiến tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất hàng hoá. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay với sự chỉ đạo đúng đắn của nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ còn dừng lại ở mức độ tốt cho sự phát triển nền kinh tế tức là chỉ ở mức 15-17% có thể nói đây cũng là một thành công không nhỏ của nhà nước ta.
3. Đặc trưng lạm phát ở nước ta:
Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc gia khác như: chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể:
- Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam thuộc loại kém phát triển nhất thế giới, các chỉ tiêu bình quân đầu người rất thấp. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Mặc dù khu vực nhà nước chiếm phần lớn số vốn đầu tư và chất xám trong cả nước nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30% - 37% tổng sản phẩm xã hội.