Gần nửa thế kỉ qua, ngành thủy sản Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, liên tục cả về số lượng lẫn chất lượng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá tích cực trong hội nhập quốc tế, vượt qua nhiều rào cản của thị trường , vững bước tiến lên. Cuộc sống của lao động nghề cá cũng từng bước được cải thiện. Nhiều ngư dân chí thú làm ăn không vì mục đích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Biết vận dụng hợp lý các chính sách của Đảng và Nhà nước, các chương trình quốc gia, cùng với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, mở rộng thị trường, dự đoán các bước phát triển hợp với sức và lực của mình để vững bước đi lên.
42 trang |
Chia sẻ: diunt88 | Lượt xem: 2314 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xuất khẩu tôm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Gần nửa thế kỉ qua, ngành thủy sản Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, liên tục cả về số lượng lẫn chất lượng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá tích cực trong hội nhập quốc tế, vượt qua nhiều rào cản của thị trường , vững bước tiến lên. Cuộc sống của lao động nghề cá cũng từng bước được cải thiện. Nhiều ngư dân chí thú làm ăn không vì mục đích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Biết vận dụng hợp lý các chính sách của Đảng và Nhà nước, các chương trình quốc gia, cùng với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, mở rộng thị trường, dự đoán các bước phát triển hợp với sức và lực của mình để vững bước đi lên.
Thực tế cho thấy sản lượng của các mặt hàng thủy sản tăng liên tục qua các năm, nhưng thị trường xuất khẩu của nó luôn luôn biến động tạo sư căng thẳng cho các nhà chính quyền, cũng như cho chính người lao động. Chính vì vậy xuật khẩu thủy sản nói chung và xuất khẩu tôm nói riêng đang là một vấn đề mang tính thời sự hiện nay.
Vậy nguyên nhân của vấn đề đó là gì? Thực trạng của nó ra sao? Và hiện tại ta đã có giải pháp như thế nào và cũng như những giải pháp mang tính lâu dài của chúng là gì ?
Hãy cùng tôi tìm hiểu đề tài nghiên cứu về “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xuất khẩu tôm” để làm rõ những thắc mắc trên.
Nội dung của đề án gồm 3 phần cơ bản như sau:
Phân 1: Khái quát chung về ngàng thuỷ sản va mặt hàng tôm xuất khẩu
Phần 2: THực trạng về tình hình xuất khẩu tôm
Phần 3: Giải pháp – những hướng đi mới – phương hướng phát triển giai đoạn 2006-2010
Mặc dù đề án đã hoàn thành, nhưng không thể tránh khỏi những sai xót. Rất mong được sự dóng góp ý kiến của quí vị để tôi có thể hoàm chỉnh đề án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn ,giúp đỡ của TS Vũ Anh Trọng
Phần I
Khái quát chung về ngành thủy sản và mặt hàng
tôm xuất khẩu
I. Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân.
1. Trước đây
Trong quá trình gần nửa thế kỉ từ ngày thành lập 1/4/1960 , Ngành thủy sản đã trải qua nhiều chặng đuờng với những chủ trương thích hợp với từng thời kì phát triển của đất nước. Sau những năm “nhanh tay lưới, chắc tay súng” cùng toàn dân tộc vừa xây dựng miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giành độc lập thống nhất tổ quốc; rồi vượt qua thời kì suy thoái nghiêm trọng, tưởng như đến bờ vực phá sản của những năm cuối 1970 của thế kỷ truớc, ngành đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, là một trong những ngành kinh tế tiên phong thử nghiệm cơ chế thị trường, góp phần khẳng định cho đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo thực hiện thành công.
Qua 20 năm thực hiện đường lối ấy, cùng với nền kinh tế nước nhà, ngành thủy sản đã không ngừng tự đổi mới, đối mặt với nền kinh tế thị trường và đã dần tự khẳng định mình như một ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt là một trong những ngành xuất khẩu hàng đầu, đóng góp lượng lớn ngoại tệ cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế nước nhà.
2.Trong giai đoạn từ 2000 đến nay:
Ngành thủy sản vẫn duy trì được sự tăng trưởng với tốc độ đáng kể, Tổng sản lượng thủy sản năm 2004 đạt 3,07 triệu tấn, trong đó sản luợng khai thác thủy sản là 1,72 triệu tấn, sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác nội địa 1,35 triệu tấn, tăng tương ứng 53%, 34% và 87% so với thực hiện năm 2000.
Năm 2000
Năm 2004
Tốc độ tăng C%
Sản lượng khai thác thủy sản(tấn)
1,28
1,72
34
Sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác nội địa(tấn)
0,72
1,35
87
Tổng sản lượng thủy sản (tấn)
2,01
3,07
53
Bảng số liệu tốc độ tăng trưởng thủy sản năm 2004 so với năm 2000
Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2004 đạt 2,4 tỷ USD, tăng gần 1 tỷ USD so với năm 2000, chiếm gần 9% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng là 7%, về giá trị xuất khẩu là 10%.
Biểu đồ hình quạt: Tỉ trọng giá trị kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản so với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước(năm 2004)
Về những đóng góp quan trọng của ngành thủy sản trong 20 năm của thời kỳ đổi mới đất nước có thể tóm tắt như sau:
Thứ nhất: Ngành thủy sản đã góp phần hình thành và thực hiện nhiều đường lối, chủ trương, chính sách có tầm chiến lược đối với đất nước. Đó là quá trình hình thành đường lối đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, hình thành cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Hội nhập ngày càng sâu vào các quan hệ kinh tế quốc tế…
Thứ hai: Đã đưa nghề cá từ một lĩnh vực sản xuất thứ yếu thành một ngành sản xuất hàng hóa với lực lượng sản xuất tiên tiến, phát huy được sức mạnh sáng tạo của nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là bà con nông ngư dân và các doanh nghiệp, hướng mạnh vào Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Biến tiềm năng thiên nhiên thành của cải vật chất, phát huy lợi thế về xuất khẩu, đưa nước ta từ chỗ chưa có tên trong danh sách đến vị trí 10 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, với nhưng sản phẩm đứng ở vị trí số một thị truờng như tôm sú, cá tra…
Thứ ba: Đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh luơng thực, tạo lập công bằng xã hội, nhất là đối với các vùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa .Tại nhiều địa phương, thủy sản , đặc biệt là nuôi trồng thủy sản, đã được xác định và mở hướng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đảm bảo nguồn sinh kế và đảm bảo thực phẩm cho dân cư, cải thiện vai trò người phụ nữ.…
II. Đóng góp của mặt hàng tôm xuất khẩu :
1.Trong thị trường nội địa:
Trong những năm qua giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng mạnh. Hàng thủy sản đã xuất khẩu tới 105 nước và vùng lãnh thổ. Chính nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ của các mặt hàng thủy sản xuất khẩu đã góp phần làm thị trường nội địa có bước chuyển dịch.
Mặc dù mức tiêu thụ thủy sản nội địa thấp, song vấn đề tổ chức quản lí thị trường thủy sản nội địa; vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩn, bao gói nhãn mác, xuất sứ hàng hóa được thực hiện tốt sẽ là thứ thuốc “kháng sinh” mạnh đảm bảo tính cạnh tranh hiệu quả của hàng hóa xuất khẩu.
Vì vậy để tăng doanh số xuất khẩu thì thủy sản nội địa là vấn đề cần được quan tâm, thông qua việc tìm hiểu và phân tích nhu cầu trong nước. Với mỗi mức nhu cầu khác nhau sẽ có qui mô phát triển, loại hình nuôi trồng thủy sản cho thích hợp.
Hiện nay ở nước ta tôm là loại thủy sản rất được quan tâm cả về cách thức nuôi trồng, khai thác, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu.
Thị trường tôm tập trung hầu hết ở các tỉnh có nguồn nước mặn, nước nợ hay có thị trường tiêu thụ rộng lơn như : Đồng bằng sông cửu long, Hải phòng, Thái bình.…
Như vậy vấn đề đặt ra với thị trường tôm nội địa là phải cho ra các sản phẩm phong phú về chủng loại: đồ tươi, khô, đông lạnh, các loại tôm chất lượng đa dạng: từ cấp thấp, cao cấp đến đặc biệt ,phù hợp khả năng tài chính của các tầng lớp dân cư.
Bên cạnh đó cũng phải chú ý tới mặt hàng tôm nhập khẩu, bởi càng ngày người dân càng trở lên “sính ngoại” , chúng ta cần có cách thức quản lí để người dân nhận ra rằng: Mặt hàng tôm của ta chất lượng không kém mà giá cả lại hợp lí, không những thế lại dược xuất khẩu sang những thị trường rộng lớn như EU, Mỹ, Nhật bản.
Tóm lại chúng ta cần ổn định thị trường nội địa của các mặt hàng thủy sản nói chung và của mặt hàng tôm nói riêng để tạo điều kiện cho xuất khẩu thủy sản phát triển bên vững.
2.Trên thị trường quốc tế:
Trong thời gian qua xuất khẩu tôm ở Viêt Nam vào thị trường quốc tế có những biến động rõ rệt.
Nhất là xuất khẩu vào Mỹ _ thị trường chiếm 23-26% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam, tiêu thụ 50% tôm xuất khẩu của Vệt Nam là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng xuất khẩu Việt Nam nó đã góp phần không nhỏ vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
Nhưng đó là thị trường đầy nguy hiểm . Kỳ đầu 2005 xảy ra vụ kiện tôm giữa Mỹ và 54 doanh nghiệp Việt Nam đã làm cho mặt hàng tôm trong nước và xuất khẩu chao đảo, hiện tượng rớt giá và vấn đề uy tín làm đau đầu các nhà cầm quyền.
Mặc dù sự kiện trên đã được giải quyết ổn thỏa, nhưng nó là bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Việc Việt Nam ra nhập WTO, bỏ qua hàng rào thuế quan sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những bước phát triển của mặt hàng xuất khẩu thủy sản. Bên cạnh đó để có thể cạnh tranh với các thị trường tôm khác trên thế giới buộc các nhà quản lí phải có những chính sách cụ thể. Đẩy mạnh việc xuất khẩu thủy sản không chỉ về số lượng mà còn cả chất lựơng.
Để làm được điều đó chúng ta cần nhìn nhận lại thực trạng phát triển của xuất khẩu thủy sản và xuất khẩu tôm để có những biện pháp cải thiện hữu hiệu nhất.
PHần II
thực trạng về tình hình xuất khẩu tôm
I.Những thuận lợi và khó khăn của vấn đề đầu vào.
Ngành xuất khẩu thủy sản nói chung và ngành xuất khẩu tôm nói riêng, vấn đề đầu vào là một điểm quan trọng quyết định đến khối lượng và số lượng xuất khẩu của thủy sản nước ta. Như vậy chúng ta cần phải nhìn nhận những tác động gây ảnh hưởng đến nghề nuôi tôm ở đây là gì? Những thuận lợi và khó khăn? Để từ đó có phương hướng phát triển và biện pháp khắc phục kịp thời.
1.Về thuận lợi:
Được đánh giá và phân loại thành 7 loại thuận lợi chính như sau:
Thứ nhất : Nước ta là một nước có nhiều tiềm năng phát triển thủy sản: là một quốc gia biển và giàu đất ngập nước với 3 kiểu môi trường nước đặc trưng là ngọt - lợ và mặn. Đây là chỗ dựa tạo kế sinh nhai cho ngư dân dân đặc biệt thuận lợi cho việc nuôi trồng, khai thác và chế biến các loại tôm.
Tại hội nghị tổng kết ngành thủy sản năm 2004, thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải đã nhấn mạnh : “Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển thủy sản và cần phải phát triển thủy sản nhanh hơn , mạnh hơn..Mục tiêu cuối cùng của ngành thủy sản là để phục vụ lợi ích người lao động”.
Thứ hai : Lực lượng lao động ngày càng phát triển và có tâm huyết với nghề. Trước đây số hộ nuôi tôm rất ítt và tập trung ở một số tỉnh vùng sông nước, bây giờ nhận thức của mọi người đã được nâng cao, mô hình nuôi tôm sú và một số loại tôm có giá trị kinh tế cao khác đã được mọi nguời quan tâm. Vì vậy nghề nuôi tôm phát triển khắp cả nước với qui mô to nhỏ tùy thuộc vào từng hình thức nuôi trồng.
Thứ ba: Các địa phương đã thay bằng việc thả, nuôi trồng hàng loạt, ban đầu đã học tập việc duy trì thả giống tôm và một số loài cá kinh tế khác để tái tạo, phát triển nguồn lợi tạo thu nhập cao.
Thứ tư: Bước đầu đã có sự áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào các hoạt động: Từ giống tôm đến hoạt động nuôi trồng , khai thác chế biến.
Đánh giá về hoạt động khoa học công nghệ trong phát triển ngành thủy sản phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm trong bài phát biểu truớc hội nghị toàn quốc về khoa học công nghệ giai đoạn 2001-2005 của ngành thủy sản ngày 28/3/2005 tại Hà Nội đã nhấn mạnh: “ cùng với việc nuôi trồng thủy sản, ngành ta đã chú y đến việc áp dụng công nghệ mới , sử dụng vật liệu mới, nâng cao trang thiết bị cho tàu thuyền đánh cá, tìm hướng đánh bắt thủy sản, đẩy mạnh đánh bắt xa bờ, đánh cá ngừ đại dương. Việc làm này không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt an ninh, quốc phòng bảo vệ chủ quyền đất nước”.
Ngoài ra phó thủ tướng còn đánh giá hoạt động công nghệ trên 3 lĩnh vực sau:
- Công tác điều tra, nghiên cứu cơ bản và đánh giá môi trường.
- Đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ: tạo gống mới có năng xuất chất lượng cao và phòng được dịch bệnh.
- Vấn đề đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong đánh bắt, chế biến, bảo quản các sản phẩm thủy sản nhất là các sản phẩm xuất khẩu.
Công tác quản lí khoa học công nghệ của bộ thủy sản đã có nhiều tiến bộ theo chủ trương hướng mạnh về cơ sở.
Như vậy việc áp dụng khoa học công nghệ là một bước đi lớn mang tính đột phá trong ngành thủy sản nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng.
Thứ năm: Được sự hướng dẫn chỉ đạo của chính phủ, công tác tổ chức quản lí và thanh tra được chú trọng. Nhờ vậy không những khuyến khích được nghề nuôi tôm phát triển một cách có quy hoạch cụ thể mà còn nâng cao được chất lượng đầu vào cho mặt hàng tôm xuất khẩu.
Thứ sáu: Cơ sở hạ tầng tốt, hình thức đánh bắt và nuôi trồng đa dạng.
Thứ bẩy: Đa dạng về chủng loại nuôi trồng thủy sản.
Trong đó đối tượng nuôi chủ lực là tôm, chủ yếu là tôm sú va một số nơi nuôi tôm chân trắng.
Nói đến tôm sú hẳn là rất quen thuộc với mọi người - đó là gống tôm chủ lực ở hầu hết các khu vực nuôi trồng thủy sản, nó đựợc giới thiệu ở rất nhiều các bài viết. Vì vậy tôi chỉ đề cập đến giống tôm chân trắng qua đề án nghiên cứu này.
Theo các thông tin chưa chính thức , tôm trắng được đưa vào Thái Lan năm 1999, quá trình nuôi cho thấy có năng xuất, mặc dù nuôi dưới hình thức nhập giống bất hợp pháp, sau đó thu hoặc được vận chuyển sang Xingapo bán do nhãn của sản phẩm tôm trắng chưa có tại Thái Lan . Cho đến năm 2002, cục thủy sản - DOF chính thức ban hành qui định về nhập khẩu tôm chân trắng.
Về kĩ thuật nuôi tôm chân trắng; quản lí trại giống; quản lí trại nuôi; quản lí cho ăn; dịch bệnh và ngăn chặn được đề cập rõ trong Tạp chí thủy sản số 4/2005*35
Về các hoạt động nghiên cứu và phát triển nuôi tôm chân trắng đã được DOF lên kế hoạch như sau:
+Tăng cường công suất sản xuất tôm chân trắng bố mẹ tại địa phương.
+ Thiết lập chương trình cấp giấy chứng nhận cho các trại sản xuất giống.
SPF- giống không mang nguồn bệnh đặc trưng. Đây là chương trình tự nguyện, các trại giống tư nhân có thể xin giấy chứng nhận SPF.
+Các trại giống tư nhân được phép nhập khẩu tôm chân trắng bố mẹ, phải giữ lại 10% tôm giống tại 1 khu vực riêng để phát triển đàn giống SPF hoặc SPR- giống kháng được nguồn bệnh đặc trưng.
+Lập chương trình nghiên cứu riêng để phát triển đàn giống SPF hoặc SPR.
+Đánh giá và giám sát môi trường sống của tôm chân trắng tại các vùng duyên hải.
Tôm chân trắng hiện đang được phát triển ở Thái Lan , Mỹ và một số nước khác. ở Việt Nam giống tôm này mới đang được áp dụng nuôi trồng ở một số khu vực. Vì vậy đây sẽ là vấn đề mà các nhà quản lí cần phải quan tâm.
2.Về khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên làm góp phần tăng sản lượng tôm xuất khẩu nhanh qua các năm, vấn đề đầu vào của tôm xuất khẩu cũng gặp phải những trở ngại sau:
Một là: Điều kiện khí hậu, môi trường nước ta diễn biến rất thất thường ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của các loại tôm. Đặc biệt có thể có nững biến động lớn làm thiệt hại đến sức người, sức của.
Hai là: Vấn đề sử dụng hóa chất, kháng sinh cấm kỵ làm giảm sút chất lượng của mặt hàng tôm xuất khẩu. Đây là nguyên nhân một măt do nhận thức còn hạn chế của các ngư dân họ chỉ biết cái lợi trước mắt của việc tăng năng suất mà không quan tâm đến tác hại của việc sử dụng không hợp lí các hóa chất, kháng sinh cấm kỵ trong nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó là việc quản lí lỏng lẻo của các cấp chính quyền về vấn đề này. Do đó cần phải quan tâm hơn nữa để đảm bảo chất lượng tôm không chỉ cho mặt hàng tiêu dùng trong nước mà cho cả mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn.
Ba là: Thiếu nguyên liệu sản xuất ở một số địa phương là khó khăn lớn nhất mang tính phổ biến ở các địa phương. Tình trạng này bộc lộ trầm trọng nhất ở khu vực phía bắc và duyên hải miền trung.
Bốn là: Các cộng đồng ven biển nhìn chung còn nghèo, thiếu vốn đầu tư và cơ sơ hạ tầng sản xuất thủy sản kém: Từ cơ sở ngiên cứu khoa học công nghệ thủy sản, khu vực bảo tồn biển và bảo tồn thủy sản nội địa, thủy lợi đầu mối, cảng cá và khu tránh trú bão, hệ thống thông tin quản lí ngành nghề thủy sản. Điều này gây ảnh hưởng đến chất lượng nuôi trồng, khai thác, chế biến các mặt hàng thủy sản, từ đó sẽ tác động lớn đến mặt hàng tôm xuất khẩu.
Năm là: Về đánh bắt và khai thác còn nhiều bất cập: mức độ khai thác chưa hợp lí, phương tiện khai thác chưa đảm bảo.
Sáu là: Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lí đầu tư xây dựng vừa yếu vừa thiếu, chưa đủ điều kiện năng lực theo qui định, tất cả các chủ đầu tư đều kiêm nhiệm ; quá trình đầu tư từ chủ trương đến quản lí xây dựng, quyết toán công trình đều thụ động. Chất lượng các tư vấn dự án khả thi, thiết kế lập tổng dự án còn hạn chế.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng được đánh giá trong năm 2005: Tổng vốn đầu tư từ ngân sách cho phát triển ngành thủy sản là 578,4 tỉ đồng, trong đó vốn do bộ trực tiếp quản lí là 172 tỉ đòng. Các dự án do bộ trực tiếp quản lí đã hoàn thành khối lượng ước đạt 114810 triệu đồng, chỉ bằng khoảng 66,75% kế hoạch, giải ngân khoảng 74,441 triệu đồng, bằng khoảng 43,45% kế hoạch.
Vậy những khó khăn trên cần phải có biện pháp khắc phục kịp thời chúng ta cùng đề cập đến phần ba của đề án này.
3. Thực trạng của vấn đề đầu vào:
3.1.Thực trạng về nuôi trồng thủy sản:
Hiện nay, các loài chủ lực như tôm sú, tôm càng xanh được tiếp tục tập trung nghiên cứu hoàn thiện theo hướng sản xuất giống chất lượng cao, sạch bệnh, đồng thời mở rộng chuyển giao công nghệ sản xuất giống cho các địa phương, khuyến khích phát triển trại giống tập trung. Kết quả là công nghệ sản xuất tôm sú đã được mở rộng áp dụng từ Nam trung bộ ra Nam bộ và Bắc bộ. Riêng về tôm sú năm 2003 đạt trên 20 tỉ giống- đây là yếu tố quyết định mở ra hướng phát triển mạnh mẽ về nghề nuôi tôm sú ở các địa phương ven biển, phục vụ nuôi trồng tập trung , qui mô, năng suất cao. Đến năm 2004, với hơn 5000 tại giống trong cả nước, đã sản xuất gần 26 tỉ tôm giống PL15, góp phần làm nên con số sản lượng tôm nuôi trên 290.000 tấn, tăng 22% cả về giá trị và sản lượng so với năm trước.
Mạng lưới trên 50 trại giống tôm càng xanh ở Nam Bộ sản xuất khoảng 60 triệu giống phục vụ đủ nhu cầu giống của khu vực và hỗ trợ cung cấp cho các địa phương khác. Đảm bảo chủ động giống lớn, chất lượng được cải thiện tạo điều kiện hình thành và phát triển sản xuất thủy sản tập trung quy mô lớn, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế góp phần mở rộng thị trường và nâng cao giá trị sản lượng xuất khẩu thủy sản.
Thành công lớn trong nuôi trồng thủy sản nữa là đã ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật sinh học phân tử trong phòng và trị bệnh nguy hiểm đối với các loại tôm cá, sử dụng các chế phẩm sinh học nhằm tăng khả năng chống chịu bệnh và quản lí chất lượng.
Về nuôi tôm nước lợ, diện tích năm 1999 là 210.448 ha so với năm 2005 là 604.479 ha
với mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 31,2% đây là tốc độ tăng trưởng rất cao do vấn đề mở rộng diện tích gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Đối với nuôi tôm nước lợ – mặn, sản lượng năm 1999 là 63.644 tấn. Song dưới tác dụng của mở rộng diện tích và tăng cường đầu tư khoa học kĩ thuật và vốn, sản luợng nuôi trông đã đạt 324.680 tấn gấp 5,1 lần đem lại hiệu quả kinh tế cao. Các tỉnh Nam Trung Bộ thì diện tích nuôi tôm hùm lồng phát triển mạnh và bước đầu được nuôi tại Quảng Ninh với kết quả đạt được là từ 7.290 (1999) với tổng sản lượng là 425 tấn tăng lên 43.510 lồng với sản lượng là 4.800 tấn và đã chủ động được giống với 3.061 lồng ươm giống, nuôi tôm hùm là hình thức nuôi có vốn đầu tư lớn và mang lại hiệu quả cao nên một số doanh nghiệp và cá nhân nuôi tôm hùm đã thành công nhanh chóng với mức doanh thu hàng năm hàng tỷ đồng và có những hộ sau khi trừ chi phí vẫn còn đạt lợi nhuận tiền tỷ – Tôm càng xanh năm 2005 ước đạt 6.400 tấn trong đó tập trung tại các tỉnh Tây Nam Bộ, các tỉnh này có sản lượng là 6.612 tấn (93,9%) thu lợi từ 50 – 80 triệu đồng/ha và năng xuất theo khảo sát tại huyện Cao Lãnh, Tam Nông thì năng suất trung bình đạt từ 1,2 – 2 tấn/ha và cá biệt có những xã năng suất đạt 2,5 tấn/ha và diện tích nuôi tôm càng xanh trong những năm tiếp theo thì có thể tăng lên nhiều và năng xuất tiếp tục tăng với tốc độ cao do trình độ người nuôi trồng và khả năng áp dụng khoa học kĩ thuật ngày càng mạnh và có hiệu quả.
Bảng: Sản lượng tôm nuôi trồng so với tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng
Chỉ tiêu
Sản lượng (tấn)
2001
2002
2003
2004
2005
Cá
421.019,0
486.420,7
604.40