Ban đầu, các trang Web là tĩnh; người dùng gửi yêu cầu một tài nguyên nào đó, và server sẽ trả về tài nguyên đó. Các trang Web không có gì hơn là một văn bản được định dạng và phân tán. Không lâu sau đó, nhu cầu về các trang Web động, có sự tương tác ngày một tăng, chính vì thế sự ra đời các công nghệ Web động là một điều tất yếu.
I.1.1 CGI
CGI cho phép tạo các chương trình chạy khi người dùng gửi các yêu cầu. CGI không phải là cách an toàn cho các trang Web động. Với CGI, người khác có thể chạy chương trình trên hệ thống.
I.1.2 Applet
Applet cho phép các nhà phát triển Vết các ứng dụng nhỏ nhúng vào trang Web. Song nó cũng có một số nhược điểm: thường bị chặn bởi việc đọc và ghi các file hệ thống, không thể tải các thư viện, hoặc đôi khi không thể thực thi trên phía client.
I.1.3 JavaScript
JavaScript được thiết kế để việc phát triển dễ dàng hơn cho các nhà thiết kế Web và các lập trình viên không thành thạo Java. Việc người ta coi các trang như là một đối tượng đã làm nảy sinh một khái niệm mới gọi là Document Object Model (DOM). DOM hoàn toàn là cách biểu diễn hướng đối tượng của trang Web và nó có thể được sửa đổi với các ngôn ngữ kịch bản bất kỳ như JavaScript hay VBScript.
I.1.4 JSP/Servlet, ASP và PHP
Servlet là một bước tiến lớn, nó đưa ra một thư viện hàm API trên Java và một thư viện hoàn chỉnh để thao tác trên giao thức HTTP. JSP và ASP đều được thiết kế để phân tách qua trình xử lí khỏi quá trình biểu diễn. Các công nghệ khác, trong đó phải kể đến là PHP (Hypertext Preprocessor) cho tới Cold Fusion. Các công nghệ này cung cấp các bộ công cụ rất mạnh cho các nhà phát triển.
I.1.5 Flash
Flash cho phép các nhà thiết kế tạo các ứng dụng hoạt họa và linh động. Flash không đòi hỏi các kỹ năng lập trình cao cấp và rất dễ học.
I.1.6 DHTML
Trong thực tế nó là một tập hợp gồm HTML, Cascading Style Sheets (CSS), JavaScript, và DOM. Tập hợp các công nghệ trên cho phép các nhà pháp triển sửa đổi nội dung và cấu trúc của một trang Web một cách nhanh chóng.
I.1.7 XML
Ngày nay chúng ta có rất nhiều dạng dẫn xuất của XML cho các ứng dụng Web (tất nhiên là có cả XHTML): XUL của Mozilla; XAMJ, một sản phẩm mã nguồn mở trên nền Java; MXML từ Macromedia; và XAML của Microsoft.
I.2 Web 2.0 và công nghệ AJAX
I.2.1 Công nghệ Web thế hệ thứ hai – Web 2.0
Được xem là một cuộc cách mạng trên thế giới mạng, thế hệ web mới có những thay đổi quan trọng không chỉ ở nền tảng công nghệ mà còn cả ở cách thức sử dụng - hình thành nên môi trường cộng đồng, ở đó mọi người cùng tham gia đóng góp cho xã hội "ảo" chứ không chỉ "duyệt và xem".
22 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2230 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tìm hiểu và xây dựng ứng dụng dựa trên công nghệ ajax, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục
CHƯƠNG I: Tổng quan về AJAX 4
I.1 Quá trình phát triển các công nghệ trong ứng dụng Web 4
I.1.1 CGI 4
I.1.2 Applet 4
I.1.3 JavaScript 4
I.1.4 JSP/Servlet, ASP và PHP 4
I.1.5 Flash 4
I.1.6 DHTML 5
I.1.7 XML 5
I.2 Web 2.0 và công nghệ AJAX 5
I.2.1 Công nghệ Web thế hệ thứ hai – Web 2.0 5
I.2.2 Các vấn đề nảy sinh và sự ra đời của AJAX 6
I.2.3 AJAX là gì ? 6
I.2.4 Các thế mạnh của AJAX 6
CHƯƠNG II: Các công nghệ trong AJAX 9
II.1 Cascading Style Sheet – CSS 9
II.1.1 Giới thiệu về CSS 9
II.1.2 Các ưu điểm của CSS trong thiết kế web 9
II.1.3 Cú pháp cơ bản của CSS 10
II.1.4 Các thuộc tính của CSS Style 10
II.2 Document Object Model – DOM 10
II.2.1 Làm việc với DOM bằng JavaScript 10
II.2.2 Tìm kiếm một DOM Node 10
II.2.3 Tạo DOM Node 10
II.2.4 Thêm style vào tài liệu 11
II.2.5 Sử dụng thuộc tính innnerHTML 11
II.3 XML và việc truyền dữ liệu bất đồng bộ 11
II.3.1 Giới thiệu về XML và XSLT 11
II.3.2 XMLHttpRequest 12
II.4 Lập trình bằng JavaScript phía client 12
CHƯƠNG III: Đối tượng XMLHttpRequest 14
III.1 Giới thiệu về XMLHttpRequest 14
III.2 Phân tích các đặc tính của XMLHttpRequest 14
III.2.1 Các phương thức và thuộc tính 14
III.2.2 Sự tương tác 14
III.2.3 Các phương thức GET và POST 15
III.3 Remote Scripting 15
III.3.1 Tổng quan về Remote Scripting 16
III.4 Gửi các request 16
III.5 DOM Level 3 và DOM 16
III.5.1 DOM Level 3 16
III.5.2 DOM 16
III.6 Kết luận 16
CHƯƠNG IV: Gửi các request và xử lý response 17
IV.1 Giao thức HTTP 17
IV.1.1 Cấu trúc của HTTP Message 17
IV.1.2 Header Field 18
IV.1.3 Status Code 18
IV.2 Xử lí các response của server 18
IV.2.1 Dùng thuộc tính innerHTML để tạo nội dung động 18
IV.2.2 Phân tách response theo chuẩn XML 18
IV.2.3 Cập nhật nội dung động với W3C DOM 19
IV.3 Gửi các tham số request từ phía client 19
IV.3.1 Gửi các tham số request theo chuẩn XML 19
IV.3.2 Gửi dữ liệu tới server bằng JSON 19
IV.4 Kết luận 19
CHƯƠNG V: Xây dựng ứng dụng AddressBook 20
V.1 Giới thiệu 20
V.2 Thiết kế các module trong ứng dụng 20
V.3 Thiết kế cơ sở dữ liệu 20
V.4 Triển khai ứng dụng 20
V.4.1 Yêu cầu 20
V.4.2 Qui trình cài đặt 21
V.4.3 Kết quả cài đặt ứng dụng trên Windows 21
V.5 Triển khai một ứng dụng không dùng AJAX 21
V.5.1 Giới thiệu và cài đặt ứng dụng SimpleAddressBook 21
VI.5.2 So sánh hai ứng dụng AddressBook và SimpleAddressBook 22
KẾT LUẬN 22
Nhiệm vụ của đồ án
Đồ án này tập trung nghiên cứu về công nghệ Ajax và ứng dụng của nó, trong đó tập trung vào các yếu tố sau:
Giới thiệu về AJAX, các công nghệ trong AJAX
Việc truyền và xử lý dữ liệu trong AJAX
Các framework cho phát triển ứng dụng web với AJAX
Xây dựng ứng dụng áp dụng AJAX
Kết quả
Nêu lên quá trình phát triển của công nghệ Web và thế hệ Web 2.0
Tìm hiểu các công nghệ trong AJAX đó là CSS, DOM, XML và JavaScript
Nghiên cứu về đối tượng XMLHttpRequest, đây là trái tim của công nghệ AJAX
Nghiên cứu việc truyền và xử lí dữ liệu phía client cũng như server
Xây dựng ứng dụng với AJAX
CHƯƠNG I: Tổng quan về AJAX
I.1 Quá trình phát triển các công nghệ trong ứng dụng Web
Ban đầu, các trang Web là tĩnh; người dùng gửi yêu cầu một tài nguyên nào đó, và server sẽ trả về tài nguyên đó. Các trang Web không có gì hơn là một văn bản được định dạng và phân tán. Không lâu sau đó, nhu cầu về các trang Web động, có sự tương tác ngày một tăng, chính vì thế sự ra đời các công nghệ Web động là một điều tất yếu.
I.1.1 CGI
CGI cho phép tạo các chương trình chạy khi người dùng gửi các yêu cầu. CGI không phải là cách an toàn cho các trang Web động. Với CGI, người khác có thể chạy chương trình trên hệ thống.
I.1.2 Applet
Applet cho phép các nhà phát triển Vết các ứng dụng nhỏ nhúng vào trang Web. Song nó cũng có một số nhược điểm: thường bị chặn bởi việc đọc và ghi các file hệ thống, không thể tải các thư viện, hoặc đôi khi không thể thực thi trên phía client.
I.1.3 JavaScript
JavaScript được thiết kế để việc phát triển dễ dàng hơn cho các nhà thiết kế Web và các lập trình viên không thành thạo Java. Việc người ta coi các trang như là một đối tượng đã làm nảy sinh một khái niệm mới gọi là Document Object Model (DOM). DOM hoàn toàn là cách biểu diễn hướng đối tượng của trang Web và nó có thể được sửa đổi với các ngôn ngữ kịch bản bất kỳ như JavaScript hay VBScript.
I.1.4 JSP/Servlet, ASP và PHP
Servlet là một bước tiến lớn, nó đưa ra một thư viện hàm API trên Java và một thư viện hoàn chỉnh để thao tác trên giao thức HTTP. JSP và ASP đều được thiết kế để phân tách qua trình xử lí khỏi quá trình biểu diễn. Các công nghệ khác, trong đó phải kể đến là PHP (Hypertext Preprocessor) cho tới Cold Fusion. Các công nghệ này cung cấp các bộ công cụ rất mạnh cho các nhà phát triển.
I.1.5 Flash
Flash cho phép các nhà thiết kế tạo các ứng dụng hoạt họa và linh động. Flash không đòi hỏi các kỹ năng lập trình cao cấp và rất dễ học.
I.1.6 DHTML
Trong thực tế nó là một tập hợp gồm HTML, Cascading Style Sheets (CSS), JavaScript, và DOM. Tập hợp các công nghệ trên cho phép các nhà pháp triển sửa đổi nội dung và cấu trúc của một trang Web một cách nhanh chóng.
I.1.7 XML
Ngày nay chúng ta có rất nhiều dạng dẫn xuất của XML cho các ứng dụng Web (tất nhiên là có cả XHTML): XUL của Mozilla; XAMJ, một sản phẩm mã nguồn mở trên nền Java; MXML từ Macromedia; và XAML của Microsoft.
I.2 Web 2.0 và công nghệ AJAX
I.2.1 Công nghệ Web thế hệ thứ hai – Web 2.0
Được xem là một cuộc cách mạng trên thế giới mạng, thế hệ web mới có những thay đổi quan trọng không chỉ ở nền tảng công nghệ mà còn cả ở cách thức sử dụng - hình thành nên môi trường cộng đồng, ở đó mọi người cùng tham gia đóng góp cho xã hội "ảo" chứ không chỉ "duyệt và xem".
I.2.1.1 Khái niệm
Dougherty không đưa ra định nghĩa mà chỉ dùng các ví dụ so sánh phân biệt Web 1.0 và Web 2.0. Có 7 đặc tính của Web 2.0:
1. Web có vai trò nền tảng, có thể chạy mọi ứng dụng
2. Tập hợp trí tuệ cộng đồng
3. Dữ liệu có vai trò then chốt
5. Phần mềm được cung cấp ở dạng dịch vụ web và được cập nhật không ngừng
4. Phát triển ứng dụng dễ dàng và nhanh chóng
6. Phần mềm có thể chạy trên nhiều thiết bị
7. Giao diện ứng dụng phong phú
I.2.1.2 Công nghệ
Kiến trúc công nghệ của Web 2.0 hiện vẫn đang phát triển nhưng cơ bản bao gồm: phần mềm máy chủ, cơ chế cung cấp nội dung, giao thức truyền thông, trình duyệt và ứng dụng.
Cung cấp nội dung
Cơ chế cung cấp nội dung, sử dụng các giao thức chuẩn hoá để cho phép người dùng sử dụng thông tin theo cách của mình.
Dịch vụ web
Có hai loại giao thức chính là REST và SOAP. REST (Representation State Transfer) là dạng yêu cầu dịch vụ web mà máy khách truyền đi trạng thái của tất cả giao dịch; còn SOAP (Simple Object Access Protocol) thì phụ thuộc máy chủ trong việc duy trì thông tin trạng thái. Với cả hai loại, dịch vụ web đều được gọi qua API. Ngôn ngữ chung của dịch vụ web là XML, nhưng có thể có ngoại lệ.
Phần mềm máy chủ
Các giải pháp phát triển theo hướng Web 2.0 hiện nay có thể phân làm hai loại: hoặc xây dựng hầu hết tính năng trên một nền tảng máy chủ duy nhất; hoặc xây dựng ứng dụng "gắn thêm" cho máy chủ web, có sử dụng giao tiếp API.
I.2.2 Các vấn đề nảy sinh và sự ra đời của AJAX
Một trong những giới hạn quan trọng của các ứng dụng Web hiện tại là cách thức nó tương tác với người dùng. Khác với các phần mềm chạy độc lập ở máy khách có những khả năng dường như vô tận trong cách thức tương tác với người dùng, các ứng dụng Web bị giới hạn bởi chính nguyên lý hoạt động của nó: tất cả các giao dịch phải thực hiện thông qua phương thức giao dịch HTTP. Bên cạnh rào cản về cách thức tương tác, các ứng dụng Web còn vấp phải nhiều giới hạn khác (ví dụ như bản thân việc phải hoạt động dựa trên các trình duyệt đã là một rào cản quan trọng). Ajax ra đời là một giải pháp cho các ứng dụng Web hiện nay.
I.2.3 AJAX là gì ?
AJAX là tập hợp của nhiều công nghệ với thế mạnh của riêng mình để tạo thành một sức mạnh mới. AJAX bao gồm:
Thể hiện web theo tiêu chuẩn XHTML và CSS, các chuẩn của W3C, được Firefox (Mozilla), Safari (Apple), Opera, Netscape 8.0 (nhân Firefox) hỗ trợ rất tốt.
Nâng cao tính năng động và phản hồi bằng DOM (Document Object Model); một chuẩn của W3C
Trao đổi và xử lý dữ liệu bằng XML và XSLT; cũng là một chuẩn của W3C
Truy cập dữ liệu theo kiểu bất đồng bộ (asynchronous) bằng XMLHttpRequest
Và tất cả các công nghệ trên được liên kết lại với nhau bằng JavaScript.
I.2.4 Các thế mạnh của AJAX
Ajax là viết tắt của Asynchronous JavaScript and XML – công nghệ kết hợp hai tính năng mạnh của JavaScript được các nhà phát triển đánh giá rất cao:
Gửi yêu cầu (request) đến server
Phân tách và làm việc với XML
Các ứng dụng Ajax xoay quanh một tính năng có tên là XMLHttpRequest.
Ở các ứng dụng web truyền thống, khi người dùng có một cần thay đổi dữ liệu trên trang Web, yêu cầu thay đổi được gửi về server dưới dạng HTTP request (hay còn gọi postback), server sẽ xử lý yêu cầu này và gửi trả response chứa các thông tin dưới dạng HTML và CSS, trang HTML này sẽ thay thế trang cũ.
Mô hình tương tác trong một ứng dụng Web truyền thống
Ajax cho phép tạo ra một Ajax Engine nằm giữa giao tiếp này. Khi đó, các yêu cầu gửi resquest và nhận response do Ajax Engine thực hiện. Thay vì trả dữ liệu dưới dạng HTML và CSS trực tiếp cho trình duyệt, web server có thể gửi trả dữ liệu dạng XML và Ajax Engine sẽ tiếp nhận, phân tách và chuyển hóa thành XHTML + CSS cho trình duyệt hiển thị. Việc này được thực hiện trên client nên giảm tải rất nhiều cho server, đồng thời người sử dụng cảm thấy kết quả xử lý được hiển thị tức thì mà không cần nạp lại trang. Mặt khác, sự kết hợp của các công nghệ web như CSS và XHTML làm cho việc trình bày giao diện trang web tốt hơn nhiều và giảm đáng kể dung lượng trang phải nạp. Đây là những lợi ích hết sức thiết thực mà Ajax đem lại.
So sánh hai mô hình ứng dụng Web: truyền thống và sử dụng Ajax
Mô hình tương tác trong một ứng dụng Web dùng Ajax
Rõ ràng điểm khác biệt là thay vì phải tải cả trang web thì với AJAX ta chỉ cần tải về phần của trang Web muốn thay đổi. Điều này giúp cho ứng dụng web của phản hồi nhanh hơn, thông minh hơn. Ngoài ra, điểm đặc biệt quan trọng trong công nghệ Ajax nằm ở chỗ Asynchronous - bất đồng bộ - tức là gửi yêu cầu của mình tới server và tiếp tục thực thi tác vụ hiện tại mà không cần chờ trả lời. Khi nào server xử lý xong yêu cầu của, nó sẽ báo hiệu và ta có thể đón để thể hiện những thay đổi cần thiết.
CHƯƠNG II: Các công nghệ trong AJAX
AJAX là một tập hợp các công nghệ bổ sung lẫn nhau. JavaScript có vai trò chất keo kết dính các ứng dụng lại với nhau. Giao diện người dùng được tạo và tái nạp bằng cách dùng JavaScript để điều khiển Document Object Model, tạo và tổ chức biểu diễn dữ liệu cho người dùng, đồng thời xử lí các tương tác trên chuột và bàn phím. Cascading Style Sheets (CSS) cung cấp một sự nhất quán trên cảm quan “look and feel” cho ứng dụng và khả năng thao tác mạnh mẽ với DOM. Đối tượng XMLHttpRequest (hay một cơ chế tương đương nào đó) được dùng để liên lạc một cách bất đồng bộ với server, đảm bảo việc gửi yêu cầu người dùng và tái nạp dữ liệu trong khi người dùng vẫn làm việc.
II.1 Cascading Style Sheet – CSS
II.1.1 Giới thiệu về CSS
Cascading Style Sheet – tạm dịch là bảng kiểu xếp chồng - là một phần không thể thiếu trong thiết kế Web. Một stylesheet đưa ra cách kiểm soát các loại định dạng trực quan, nó có thể được áp dụng cho các thành phần riêng lẻ trên các trang. Với Ajax, stylesheet cung cấp một “kho chứa” các giao diện xác định trước có thể áp dụng cho các phần tử động với độ dài các đoạn mã nguồn là nhỏ nhất.
CSS định dạng một trang web theo ba cách :
Sử dụng trực tiếp kèm với các thẻ HTML (Inline Style Sheet)
Định nghĩa trong một trang web (Internal Style Sheet).
Định nghĩa thành một file CSS riêng (External Style Sheet). Trang web của chúng ta sẽ tham chiếu đến file CSS này.
Một quy tắc định dạng và bố trí gồm có hai phần: thành phần lựa chọn - selector và phần khai báo - style declaration. Selector đặc tả các phần tử được định dạng và bố trí, và style declaration khai báo các thuộc tính định dạng sẽ được áp dụng.
II.1.2 Các ưu điểm của CSS trong thiết kế web
a. CSS giúp tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức cho việc thiết kế web
b. CSS cho phép điều khiển cách định dạng và cách bố trí của cùng lúc nhiều trang web với chỉ duy nhất một lần thay đổi tại một vị trí.
c. Có thể định nghĩa nhiều style vào một thẻ HTML
d. Thứ tự áp dụng các định dạng
Inline Style (Style được qui định trong một thẻ HTML cụ thể)
Internal Style (Style được qui định trong phần của một trang HTML)
External Style (style được qui định trong file CSS ngoài)
Browser Default (thiết lập mặc định của trình duyệt)
II.1.3 Cú pháp cơ bản của CSS
Cú pháp của CSS gồm ba thành phấn:
Thành phần lựa chọn (thường là một thẻ HTML) (Selector)
Thuộc tính (Property)
Giá trị (Value)
có ba cách để chèn CSS vào trang web.
a. External Style Sheet (sử dụng file CSS được định nghĩa thành trong file riêng)
b. Internal Style Sheet (định nghĩa các style sheet ngay trong trang web)
c. Internal Style Sheet (style được qui định ngay trong mỗi thẻ HTML)
II.1.4 Các thuộc tính của CSS Style
Các thuộc tính color, font size, độ đậm của phông, và kiểu chữ sử dụng.
II.2 Document Object Model – DOM
DOM giúp phân tích một tài liệu (một trang web chẳng hạn) phục vụ cho cơ chế của JavaScript. Sử dụng DOM, cấu trúc của tài liệu có thể được phân rã theo cấu trúc cây và thao tác theo các nút. Đây là một khả năng đặc biệt hữu ích để Vết một ứng dụng Ajax. Trong một ứng dụng Ajax, sự thay đổi giao diện người dùng chủ yếu được tạo ra bởi DOM. Các thẻ HTML trong trang web được tổ chức theo cấu trúc cây. Gốc của cây là thẻ , để biểu diễn tài liệu. Trong đó thẻ biểu diễn phần thân của tài liệu, là gốc của phần hiển thị của tài liệu. Trong thân của tài liệu, có các bảng, paragraph, list, và các loại thẻ khác với các thẻ ở mức thấp hơn nữa.
II.2.1 Làm việc với DOM bằng JavaScript
Trong một ứng dụng bất kỳ, nếu muốn thay đổi giao diện người dùng khi họ đang làm việc, thì phải cung cấp các phản hồi lại khi người dùng gửi các yêu cầu.
II.2.2 Tìm kiếm một DOM Node
Yêu cầu đầu tiên để làm việc trên DOM với JavaScript là đi tìm kiếm một phần tử để thay đổi. Trước hết cần bắt đầu tham chiếu qua nút gốc - root node, nút này thể hiện qua biến toàn cục document. Mỗi nút trong DOM là một nút con (hoặc nút con cấp hai, ba…) của document. Mỗi phần tử HTML có một thuộc tính ID. Mỗi một nút DOM có thể có một ID gán cho nó, và ID này có thể được dùng để tham chiếu tới nút qua hàm : var hello=document.getElementById('hello'); Một cách khác để tìm kiếm là dựa trên loại thẻ HTML, dùng phương thức getElementsByTagName().
II.2.3 Tạo DOM Node
Trong nhiều trường hợp cần tạo các nút mới và thêm nó vào tài liệu. JavaScript cung cấp một số phương thức để làm điều đó.
Các phương thức chuẩn để tạo nút mớilà document.createElement()
và document.createTextNode().createTextNode() tạo một nút thể hiện qua một đoạn text, thường được tìm thấy trong các thẻ về heading, div, paragraph, và list item. Một nút khi được tạo ra phải được gắn vào tài liệu trước khi hiển thị trên trình duyệt, phương thức appendChild() được dùng để thực hiện điều này.
II.2.4 Thêm style vào tài liệu
DOM cũng cung cấp các phương thức để chỉnh sửa style.
Thuộc tính className
hello.className='declared';
với hello tham chiếu tới một nút DOM.
Thuộc tính style
Ví dụ, đoạn mã sau bổ sung các thuộc tính style cho nút empty:
empty.style.border="solid green 2px";
empty.style.width="200px";
II.2.5 Sử dụng thuộc tính innnerHTML
Các phần tử DOM của các trình duyệt web đều hỗ trợ một thuộc tính gọi là innerHTML, cho phép các nội dung kiểu string tùy ý được gán cho các phần tử theo thuộc tính này.
II.3 XML và việc truyền dữ liệu bất đồng bộ
II.3.1 Giới thiệu về XML và XSLT
II.3.1.1 XML là gì?
Năm 1969, IBM đã cho ra đời GML là ngôn ngữ dùng để đặc tả cho ngôn ngữ khác. Về sau GML phát triển thành SGML là chuẩn lưu trữ và chuyển đổi dữ liệu. Nhưng quá phức tạp và tiêu tốn nhiều công sức trong việc hiện thực. XML ra đời kết hợp được sức mạnh của SGML và tính phổ dụng của HTML.
II.3.1.2 Các đặc điểm của XML
XML tương thích với SGML
Dễ dàng Vết được những chương trình xử lý tài liệu XML
Tài liệu XML dễ đọc và có tính hợp lý cao
XML được xây dựng với sự giảm thiểu những thuộc tính tùy chọn
XML dễ dàng được sử dụng trên Internet
XML hỗ trợ nhiều ứng dụng
Không đặt nặng tính hình thức trong nội dung thẻ đánh dấu XML
II.3.1.3 Cấu trúc một tài liệu XML
Một tài liệu XML sẽ chứa những đặc tả về cấu trúc dữ liệu. Mỗi cấu trúc gồm nhiều phần tử (element), mỗi thành phần được bắt đầu với một thẻ bắt đầu (Start–tag) và kết thúc với một thẻ kết thúc (End–tag). Giữa Start–tag và End–tag là nội dung của phần tử này. Nội dung có thể bao gồm dữ liệu văn bản hay có thể là một phần tử khác.
II.3.1.4 XSLT - (eXtensible Style Language Transforming)
XSLT là một phần của XSL (eXtensible Style Language). XSL là một ngôn ngữ nền tảng XML và ra đời với mục đích chuyển đổi một tài liệu XML thành một tài liệu XML khác hay chuyển một tài liệu XML thành những đối tượng có thể thể hiện được.
II.3.2 XMLHttpRequest
Các ứng dụng web truyền thống đều phải tái nạp toàn bộ trang web khi gửi yêu cầu đến server, điều này thường dẫn đến một sự ngắt quãng cho công việc của người dùng. Vì thế yêu cầu đặt ra là làm cho các request của server không đồng bộ và người dùng vẫn có thể làm việc trong khi đợi tín hiệu trả lời từ server. XMLHttpRequest đã được đưa ra như là một giải pháp mạnh mẽ và hiệu quả.
II.3.2.1 XmlDocument và XMLHttpRequest
Các đối tượng XmlDocument và XMLHttpRequest không phải là các chuẩn DOM mở rộng của trình duyệt web nhưng vẫn được hỗ trợ bởi rất nhiều trình duyệt. Các đối tượng đều dựa trên ActiveX hay các đối tượng JavaScript. Các trình duyệt khác đều có thực thi các đối tượng trên có các chức năng tương đương và các lời gọi hàm API.
II.3.2.2 Gửi một yêu cầu đến server
Gửi một yêu cầu đến server từ một đối tượng XMLHttpRequest rất dễ dàng. Tất cả những việc ta cần làm là truyền cho nó địa chỉ URL của server.
II.3.2.3 Dùng các hàm callback để giám sát các yêu cầu
Các hàm callback đón bắt các sự kiện trong cách tiếp cận lập trình hướng sự kiện trong hầu hết các bộ công cụ UI. Khi tạo các giao diện người dùng UI bằng JavaScript, ta gán các hàm onkeypress, onmouseover, và đặt tên tương tự cho các thuộc tính tương đương cho các đối tượng.
II.4 Lập trình bằng JavaScript phía client
JavaScript là một ngôn ngữ lập trình đa năng, nó là một ngôn ngữ có kiểu tự do, thông dịch, ngôn ngữ kịch bản đa năng. Kiểu tự do nghĩa là các biến không được khai báo cụ thể và các biến giống nhau có thể được gán bới các kiểu khác nhau. Thông dịch nghĩa là các mã nguồn không được biên dịch thành các đoạn mã nhị phân có thể thực thi được, và nó được thực thi trực tiếp, cụ thể là qua các trình duyệt. Đa năng nghĩa là ngôn ngữ này thích hợp để lập trình theo hầu hết các thuật toán và các tác vụ. Trong môi trường trình duyệt web, các chức năng cơ bản của trình duyệt, gồm CSS, DOM, và các đối tượng XMLHttpRequest, được coi là các phương tiện của JavaScript, cho phép các nhà phát triển điều khiển các trang ở các mức độ khác nhau.
CHƯƠNG III: Đối tượng XMLHttpRequest
III.1 Giới thiệu về XMLHttpRequest
Trước tiên cần tạo một đối tượng XMLHttpRequest bằng JavaScript trước khi sử dụng đối tượng này để gửi request và xử lý các response. XMLHttpRequest chưa là chuẩn của W3C, vì thế phải dùng JavaScript theo nhiều cách để tạo một thể hiện của của XMLHttpRequest. Để tạo một thể hiện của đối tượng XMLHttpRequest. Công việc chỉ đơn giản là kiểm tra sự hỗ trợ đối tượng ActiveX của trình duyệt. Nếu hỗ trợ ActiveX, thì tạo một đối tượng XMLHttpRequest dùng ActiveX. Trường hợp khác, tạo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Baocaotomtat.doc
- DApp_My.ppt