Đồ án tốt nghiệp Giao thức TCP/IP_Phần 3

Như phần trước đã đề cập mô hình tham chiếu của ATM không tương thích hoàn toàn với mô hình 7 lớp của OSI. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà ta xem xét mô hình tham chiếu của ATM tương đương với các lớp khác nhau của mô hình OSI. Khi tìm hiểu phương pháp kết nối TCP/IP qua mạng ATM thì mô các lớp của mô hình ATM tương đương với hai lớp dưới (lớp liên kết dữ liệu và lớp vật lý) của mô hình OSI. Có hai phương pháp kết nối để lớp mạng truyền thống hoạt động ở trên lớp mạng ATM như hình 5.1.

doc38 trang | Chia sẻ: diunt88 | Lượt xem: 2510 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án tốt nghiệp Giao thức TCP/IP_Phần 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 5 : Kết nối TCP/IP qua mạng ATM 5.1.Tổng quan về kết nối Internet qua mạng ATM Như phần trước đã đề cập mô hình tham chiếu của ATM không tương thích hoàn toàn với mô hình 7 lớp của OSI. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà ta xem xét mô hình tham chiếu của ATM tương đương với các lớp khác nhau của mô hình OSI. Khi tìm hiểu phương pháp kết nối TCP/IP qua mạng ATM thì mô các lớp của mô hình ATM tương đương với hai lớp dưới (lớp liên kết dữ liệu và lớp vật lý) của mô hình OSI. Có hai phương pháp kết nối để lớp mạng truyền thống hoạt động ở trên lớp mạng ATM như hình 5.1. Hình 5.1: Hai phương pháp kết nối TCP/IP qua mạng ATM Mô hình mô phỏng LAN. Mô phỏng LAN là phương án đi theo hướng cho lớp mạng hoạt động bên trên lớp ATM thông qua một lớp trung gian. Phương pháp này do diễn đàn ATM (ATM Forum) đưa ra. Thông qua lớp trung gian, được gọi là lớp LANE (LAN Emulation), mạng ATM trở lên giống với các mạng LAN thông thường như mạng Ethernet hay Token Ring. Khi đó lớp mạng truyền thống có thể hoạt động trên mạng ATM mà không cần có bất kỳ sự thay đổi nào. Phương pháp IP truyền thống trên ATM. Trong phương pháp này mạng ATM sẽ được sử dụng với các chức năng giống như mạng LAN truyền thống để truyền các gói IP. Khi đó cần có các biện pháp để chuyển đổi từ địa chỉ IP sang địa chỉ ATM và biện pháp xếp các gói IP vào các đơn vị số liệu của lớp AAL. Phương pháp này do IETF (Internet Engineering Task Force)đưa ra. Hai phương pháp trên có nhược điểm là chỉ coi mạng ATM như các mạng truyền thống đang tồn tại do đó không tận dụng được các ưu điểm của mạng ATM như chất lượng dịch vụ..... Do đó ATM Forum và IETF đã đưa ra hai phương án giải quyết tiếp theo đó là: Đa giao thức trên ATM MPOA (MultiProtocol over ATM) do ATM Forum đưa ra. Giao thức phân tích chặng kế tiếp (NHRP) do IETF đưa ra. Trong phần tiếp theo ta sẽ đi vào xem xét cụ thể hai phương pháp do IETF đưa ra. 5.2. Phương pháp IP truyền thống trên ATM Sự triển khai của ATM trong một mạng IP truyền thống như một sự thay thế trực tiếp cho các mạng LANs. Khi đó mạng ATM được dùng để kết nối các Router như các mạng LAN truyền thống. 5.2.1. Các vấn đề cần giải quyết trong phương pháp IP truyền thống trên ATM Phương pháp IP truyền thống trên ATM được phát triển dựa theo ý tưởng của mạng LAN truyền thống. Trong phương pháp này mạng ATM được coi gần giống như một mạng LAN truyền thống đóng vai trò mạng truyền dẫn cho giao thức IP, đó là lý do vì sao nó được gọi là phương pháp IP truyền thống trên ATM. Nếu xét theo mô hình phân lớp thì trong phương pháp này mạng ATM đóng vai trò như lớp liên kết dữ liệu và lớp vật lý. Hình 5.2 so sánh mô hình phân lớp của mạng LAN truyền thống và của phương pháp IP truyền thống trên ATM. Các lớp cao hơn   Lớp IP   IP over ATM  LLC   Lớp tương thích ATM  Lớp điều khiển truy nhập thiết bị (MAC)   Lớp ATM    Lớp vật lý  Lớp vật lý   Mạng ATM có triển khai IP over ATM  Mạng LAN truyền thống   Hình 5.2: Phương pháp IP truyền thống trên ATM khi so sánh với mạng LAN Vì phương pháp IP truyền thống trên ATM dựa trên nguyên tắc hoạt động của giao thức IP trên môi trường mạng LAN truyền thống lên khi nghiên cứu phương pháp IP truyền thống trên ATM ta cần phải giải quyết ba vấn đề cơ bản sau đây: Phương pháp đóng gói các Datagrams: Các đơn vị số liệu của giao thức Internet (các Datagrams) cần được đóng gói vào các đơn vị số liệu của mạng ATM. Các đơn vị số liệu của ATM được sử dụng là các AAL5 CPCS-SDUs. Chuyển đổi địa chỉ: Mỗi thiết bị cuối trong mạng ATM sẽ có hai loại địa chỉ là địa chỉ IP và địa chỉ ATM. Khi hai thiết bị cuối muốn thiết lập kết nối cũng như trong các mạng LAN chúng không những phải biết địa chỉ IP của nhau mà còn phải biết địa chỉ ATM. Tức là cần phải có một cơ chế để chuyển đổi địa chỉ IP sang địa chỉ ATM và ngược lại. Các quy tắc báo hiệu để thiết lập kết nối: Báo hiệu trong mạng ATM khi sử dụng cho phương pháp IP truyền thống trên ATM ngoài bao gồm các thủ tục thiết lập kết nối còn có một số thủ tục khác như kích thước cực đại của các gói tin, tham số lưu lượng tải, kiểu giao thức ở lớp bên trên .... Tuy nhiên mạng ATM có một số đặc điểm khác với mạng LAN như: Mạng LAN có các phương tiện dùng chung trong khi mạng ATM có phương tiện truyền dẫn riêng cho mỗi kết nối. ATM cung cấp một môi trường chuyển mạch kiểu kết nối ảo. Một kết nối ảo có thể được thiết lập thông qua một kết nối ảo cố định (PVC) hoặc một kết nối ảo chuyển mạch (SVC). Mạng LAN là mạng hoạt động theo phương thức không liên kết (Connectionless) trong khi mạng ATM hoạt động theo phương thức hướng liên kết (Connection-Oriented). Trong mạng LAN việc quảng bá thông tin (sử dụng địa chỉ cuối mạng) được thực hiện dễ dàng. Trong mang ATM việc truyền quảng bá thông tin không được mạng hỗ trợ do đó thực hiện quảng bá thông tin rất khó khăn. Một địa chỉ ATM đầu cuối có thể được mã hoá theo một trong hai kiểu: kiểu địa chỉ NSAP hoặc kiểu địa chỉ E.164. Trong một số trường hợp cả hai địa chỉ này đều cần thiết cho một máy khách ATMARP để có thể liên lạc được với một Router hoặc một máy khác. Việc sử dụng địa chỉ ATM cuối cùng và địa chỉ E.164 bởi ATMARP cũng tương tự như địa chỉ của mạng Ethernet. Từ sự khác nhau đó lên việc xem xét các vấn đề trên đối với mạng ATM có khác so với mạng LAN. Các vấn đề nêu trên sẽ lần lượt được xem xét trong từng mục dưới đây. 5.2.2.Phương pháp đóng gói dữ liệu Có ba phương pháp đóng gói dữ liệu là: phương pháp LLC/SNAP, phương pháp ghép kênh VC và phương pháp TULIP/TULIC. Hình 5.3 minh hoạ ba phương pháp đóng gói đó. Higher layer   Higher layer     TCP     Higher layer   IP   TCP     LLC   IP   TCP   AAL5   AAL5   AAL5   ATM   ATM   ATM   LLC/SNAP  VC multiPlexing  TUNIC   Hình 5.3: Các phương pháp đóng gói khi truyền các gói IP qua mạng ATM Trong đó : LLC: Logic Link Control. Điều khiển liên kết Logic. SNAP: Subnetwork Attachment Point. Điểm gắn vào mạng con. TUNIC : TCP and UDP over non-existent IP. Với các kiểu đóng gói khác nhau thì các thông tin dùng để tách kênh ở các trạm cuối và thông tin cần mang trong bản tin báo hiệu là khác nhau. Tuy nhiên khi càng nhiều thông tin cần dùng để tách kênh tại các trạm cuối thì càng có ít thông tin cần truyền đi trong bản tin báo hiệu. Bảng 5.1 trình bày các thông tin cần truyền trong bản tin báo hiệu và các thông tin dùng để tách kênh của các phương pháp đóng gói khác nhau. Phương pháp đóng gói  Thông tin dùng để tách kênh tại trạm cuối  Thông tin trong bản tin báo hiệu   LLC/SNAP  Địa chỉ nguồn  Không có    Địa chỉ đích     Họ giao thức     Giao thức     Cổng    Ghép kênh ảo  Địa chỉ nguồn  Họ giao thức    Địa chỉ đích     Giao thức     Cổng    TUNIC  Không có  Địa chỉ nguồn     Địa chỉ đích     Họ giao thức     Giao thức     Cổng   Bảng 5.1: Các thông tin cần thiết để tách kênh và các thông tin cần truyền trong bản tin báo hiệu của các phương pháp đóng gói khác nhau 5.2.2.1.Phương pháp đóng gói LLC/SNAP (Điều khiển kết nối Logic/điểm gắn vào mạng con) Đối với phương pháp này hầu hết các chức năng ghép kênh cần phải thực hiện ở trạm cuối. ở đó LLC/SNAP Header được thêm vào hoặc ước lượng tương ứng. Phương pháp đóng gói này là phù hợp nhất cho mạng dùng PVC hoặc mạng không có khả năng mang song song nhiều kênh VCs. Do đó một vài kết nối của các giao thức bậc cao có thể dễ dàng chia sẻ một VCC đơn. Mặc dù phương pháp đóng gói này đòi hỏi phải xử lý và truyền dẫn nhiều hơn nhưng nó là phương pháp được sử dụng cho nhiều mạng và là kiểu đóng gói mặc định cho phương pháp IP truyền thống trên ATM. Trong phương pháp đóng gói này, đơn vị dữ liệu giao thức Internet được gắn thêm phần tiếp đầu điều khiển liên kết logic có độ dài 3 Bytes như hình sau. Bytes  1  2  3    DSAP  SSAP  Ctrl   Trong đó: DSAP (1 Byte): Destination Service Access Piont -Điểm truy nhập dịch vụ đích. SSAP (1 Byte): Source Service Access Piont -Điểm truy nhập dịch vụ nguồn. Ctrl (1 Byte) : Xác định các loại khung khác nhau. Ngoài ra đơn vị số liệu giao thức còn được gắn thêm phần tiếp đầu điểm gắn vào mạng con SNAP nếu giao thức không phải là giao thức chuẩn ISO. Cấu trúc phần tiếp đầu điểm gắn vào mạng con có dạng như hình sau. Bytes  1  2  3  4  5    OUI  PID   Trong đó: OUI (3 Bytes): Organizationally Unique Identifier - Xác định tổ chức quy định ý nghĩa trường PID. OUI có giá trị 0x00-00-00 cho cả hai trường hợp gói dữ liệu là gói IP hoặc gói ATMARP. PID (2 Bytes): Protocol Identifier- Xác định giao thức lớp trên. PID = 0x08-00: Trường hợp gói dữ liệu là gói IP. PID = 0x08-06: Trường hợp gói dữ liệu là gói ATMARP/InATMARP. ở đây ta không quan tâm đến chi tiết từng giá trị của phần tiếp đầu điều khiển liên kết Logic và phần tiếp đầu điểm gắn vào mạng con mà chỉ quan tâm đến giá trị của chúng trong trường hợp giao thức Internet. Với giao thức Internet không phải là giao thức chuẩn ISO nên phần tiếp đầu điều khiển liên kết Logic có giá trị 0xAA-AA-03 để biểu thị sự tồn tại của phần tiếp đầu điểm gắn vào mạng con. Phần tiếp đầu điểm gắn vào mạng con dùng để xác định giao thức Internet có giá trị 0x00-00-00 cho trường OUI và 0x80-00 cho trường PID. Như vậy sau khi thêm phần tiếp dầu điều khiển liên kết logic và phần tiếp đầu điểm gắn vào mạng con vào đơn vị dữ liệu giao thức Internet ta sẽ có đơn vị dữ liệu giao thức của lớp con hội tụ chung (CPCS) có dạng như hình 5.4.  Bytes   LLC (0xAA-AA-03)  3   OUI (0x00-00-00)  6   PID (0x08)  8   Đơn vị số liệu giao thức Internet (độ dài tối đa 216-9 Bytes)  9   Hình 5.4: Cấu trúc gói dữ liệu của phương pháp LLC/SNAP Ta thấy đơn vị số liệu giao thức của giao thức Internet có độ dài lên đến (216 –9) Bytes. Mặc dù giá trị 9180 Bytes là giá trị mặc định. Độ dài của đợn vị số liệu giao thức có thể thay đổi tuỳ theo sự thoả thuận của hai bên trao đổi dữ liệu. Hình 5.5 trình bày quá trình chuyển các gói dữ liệu của các giao thức khác nhau qua một kênh ảo sử dụng phương pháp đóng gói LLC/SNAP. Hình 5.5: Phương pháp đóng gói LLC/SNAP Với đơn vị số liệu của giao thức phân tích địa chỉ ATM thì các giá trị các trường trong phần tiếp đầu điều khiển liên kết logic và phần tiếp đầu điểm gắn vào mạng con cũng giống như đơn vị số liệu của giao thức Internet. Chỉ khác ở trường xác định giao thức PID. Trong trường hợp giao thức phân tích địa chỉ ATM trường PID có giá trị 0x08-06. 5.2.2.2.Phương pháp ghép VCs Phương pháp này còn gọi là không đóng gói tức là chức năng LLC không tồn tại. Các gói dữ liệu của tầng mạng, ví dụ như các IP Datagrams được chuyển trực tiếp vào một kết nối ATM/AAL5. Thông tin lớp thấp băng rộng chỉ ra rằng thực thể tầng mạng là đích của kết nối. Hình 5.6 trình bày quá trình sử dụng các kết nối ảo để truyền các gói dữ liệu của các giao thức khác nhau. Hình 5.6: Phương pháp ghép VCs Mặc dù phương pháp ghép kênh cần ít mào đầu hơn phương pháp LLC/SNAP nhưng nó yêu cầu nhiều VCCs hơn, một VCC riêng lẻ cho mỗi một cặp giao thức tầng mạng giữa hai thiết bị ATM đầu cuối và trong bản tin kết nối yêu cầu nhiều thông tin hơn. 5.2.2.3.Phương pháp TULIP và TUNIC Phương pháp này được đề nghị là giải pháp cho tương lai để giảm bớt mào đầu nhưng nó không phải là một phần của phương pháp IP truyền thống trên ATM. Phương pháp TUNIC không chỉ loại bỏ tầng LLC mà nó còn loại bỏ cả tầng IP. Kết nối ATM/ AAL5 tồn tại trực tiếp giữa các tầng giao vận như TCP, UDP. Tuy nhiên ứng dụng của phương pháp này chưa được hình thành và nó gần như chưa có thực tế. Việc đánh địa chỉ cho các thực thể tầng giao vận với các giao thức báo hiệu đang tồn tại là không thể và nó phải yêu cầu các cơ chế bổ xung. 5.2.2.4.Kích thước gói IP cực đại MTU sử dụng cho ATM AAL5 Thông thường việc truyền các gói tin càng lớn thì quá trình truyền càng hiệu quả. Tuy nhiên kích thước cực đại cho phép của các gói tin truyền trong các mạng khác nhau là khác nhau. Để tránh tình trạng các gói tin bị phân mảnh khi đi qua các mạng khác nhau thì các kích thước cực đại này có xu hướng gần xấp xỉ nhau. Độ dài mặc định của các gói trong phương pháp IP truyền thống trên ATM là 9180 Bytes, như thế nó đủ lớn truyền qua các mạng như Ethernet, Token Ring, FDDI… mà không phải phân mảnh. Tuy nhiên kích thước gói lớn hơn tạo ra hiệu quả truyền dữ liệu tốt hơn, mà AAL5 cho phép kích thước của các CPCS-SDUs có thể đến 64 Kbytes, lên các gói có kích thước đến 64 Kbytes được cho phép truyền nếu tất cả các trạm trên cùng LIS được cấu hình để truyền dữ liệu có kích thước lớn hơn. Đối với mạng ATM, trong phương pháp kết nối ảo cố định (PVC) không cần một giao thức báo hiệu nào để thiết lập kết nối do vậy kích thước gói tin mặc định được sử dụng. Trong phương pháp kênh ảo chuyển mạch phải sử dụng các giao thức báo hiệu để thiết lập kênh ảo, nên trong giao thức báo hiệu có thể bao gồm một trường mang thông tin về kích thước tối đa mà bên chủ gọi yêu cầu gửi đến bên bị gọi theo chiều đi và kích thước cực đại mà bên bị gọi có thể đáp ứng được theo chiều ngược lại. Bình thường thì cả bên chủ gọi và bên bị gọi đều sử dụng các gói tin có kích thước mặc định (9180 Bytes). Nếu bên chủ gọi muốn sử dụng một kích thước khác thì nó phải miêu tả kích thước này trong bản tin báo hiệu (có trong thông số của phần tử thông tin AAL). Kích thước cực đại của các gói tin CPCS-SDU có thể thay đổi trong khoảng 1(65535 Bytes. Quá trình xử lý thông tin này ở bị gọi và bên chủ gọi như sau: Nếu bên bị gọi có thể chấp nhận kích thước cực đại được miêu tả bởi bản tin báo hiệu thiết lập kết nối thì kích thước cực đại của gói tin đi và về sẽ được sử dụng. Nếu bên bị gọi không đáp ứng được kích thước đề nghị thì nó sẽ thiết lập kích thước cực đại của CPCS-SDU trong bản tin trả lời thiết lập kết nối gửi đến bên chủ gọi. Nếu bên chủ gọi thu được bản tin thiết lập kết nối mà trong đó không bao gồm thông tin về kích thước cực đại (có trong thông số của phần tử thông tin AAL). Nó sẽ huỷ bỏ kết nối vì lý do các thông số AAL không được hỗ trợ. 5.2.4.Cấu hình mạng con IP Logic Trong phương pháp IP truyền thống trên ATM một kiểu quản lý riêng biệt được cấu hình cho các Hosts và Routers gọi là mạng con IP Logic (LIS). Một mạng con IP Logic trong mạng ATM được định nghĩa là mạng bao gồm các thiết bị có cùng tiếp đầu của địa chỉ IP. Mỗi LIS hoạt động và liên lạc độc lập với các LISs khác trên cùng một mạng ATM. Kết nối giữa hai Hosts trong cùng một LIS là trực tiếp. Kết nối với các Hosts ở bên ngoài mạng con IP Logic được thực hiện thông qua các Routers. Router này là một điểm cuối ATM gắn vào mạng ATM và nó được cấu hình là một thành viên của một hoặc một số LISs hoạt động trên cùng một mạng ATM. Cấu hình kiểu này có thể dẫn đến kết quả là có một số các LISs riêng biệt hoạt động trên cùng một mạng ATM. Các Hosts của các mạng con IP Logic khác nhau bắt buộc phải liên lạc với nhau thông qua các IP Routers trung gian ngay cả trong trường hợp có thể thiết lập một VC trực tiếp giữa hai thành viên IP qua mạng ATM. Yêu cầu của các thành viên IP (Hosts, Routers) hoạt động trong một mạng con IP Logic là: Tất cả các thành viên đều có cùng mạng IP, số mạng con và mặt nạ địa chỉ. Tất cả các thành viên trong một LIS đều kết nối trực tiếp với mạng ATM. Tất cả các thành viên ở bên ngoài LIS muốn kết nối với các thành viên bên trong LIS đều phải thực hiện thông qua Router. Tất cả các thành viên của LIS phải có một cơ cấu để chuyển đổi địa chỉ IP sang địa chỉ ATM thông qua giao thức ATMARP và ngược lại thông qua giao thức InATMARP khi sử dụng SVCs. Tất cả các thành viên của một LIS phải có một cơ chế để chuyển đổi các VCs thành địa chỉ IP thông qua InATMARP khi sử dụng PVCs. Tất cả các thành viên trong một LIS phải có thể liên lạc với bất cứ một thành viên nào ở trong cùng LIS thông qua mạng ATM. Hình 5.7 trình bày cấu trúc của hai mạng con Logic Avà B của cùng một mạng ATM . Hình 5.7: Cấu hình mạng con Logic 5.2.5.Cơ chế phân tích địa chỉ trong phương pháp IP truyền thống trên ATM Như đã xét ở trên mạng ATM có đặc điểm khác mạng LAN truyền thống là mạng ATM không hỗ trợ chế độ truyền tin quảng bá (Broadcast). Do vậy cơ chế phân tích địa chỉ trong mạng ATM khác với mạng LAN. Trong mạng LAN, yêu cầu phân tích địa chỉ được truyền quảng bá trong mạng và máy có địa chỉ IP phù hợp với địa chỉ IP trong câu hỏi sẽ trả lời yêu cầu đó . Nhưng trong mạng ATM việc phát tin quảng bá rất phức tạp, vì vậy cần phải có một thiết bị chuyên đảm nhận việc trả lời các yêu cầu phân tích địa chỉ. Thiết bị đó gọi là máy chủ phân tích địa chỉ ATM (ATMARP Server). Các thiết bị cuối trong mạng con Logic được coi là các máy khách phân tích địa chỉ (ATMARP Clients). Các máy khách và máy chủ trong mạng con IP Logic liên lạc với nhau thông qua giao thức phân tích địa chỉ ATM (ATMARP) và giao thức phân tích địa chỉ ATM ngược (InATMARP). ATMARP là giao thức giống với giao thức ARP nhưng nó cần thêm một số cơ chế bổ xung để hỗ trợ ARP trong môi trường ATM đơn hướng. InATMARP là giao thức tương tự như giao thức RARP nhưng nó được ứng dụng cho mạng ATM. Tất cả các máy trạm IP đều phải hỗ trợ các giao thức này. Việc sử dụng các giao thức này khác nhau phụ thuộc vào việc sử dụng PVCs hay SVCs. 5.2.5.1.Các kết nối ảo cố định (PVCs) Một máy trạm IP phải có một cơ cấu để xác định nó có PVCs nào, đặc biệt PVCs nào đang được sử dụng bởi phương pháp đóng gói LLC/SNAP. Tất cả các thành viên hỗ trợ PVCs đều được yêu cầu sử dụng giao thức InATMARP trên các VCs sử dụng phương pháp đóng gói LLC/SNAP. Trong một môi trường chỉ có PVC thì bên thu phải suy luận VC thích hợp từ VC mà trên đó có chứa yêu cầu InATMARP (InARP_REQUEST) hoặc trả lời InATMARP (InARP_REPLY). Để từ đó thiết lập cơ sở dữ liệu tương ứng giữa kết nối ảo cố định (được xác định bằng cặp giá trị VCI/VPI) và địa chỉ IP. 5.2.5.2.Các kết nối ảo chuyển mạch (SVCs) SVCs dùng để hỗ trợ ATMARP trong môi trường không có chế độ Broadcast và Multicast mà mạng ATM hiện nay đang cung cấp. Để thực hiện điều đó cần có một ATMARP Server đặt trong một LIS. Máy này phải có khả năng trả lời tất cả các yêu cầu ATMARP của tất cả các thành viên trong LIS. Bản thân máy chủ tự nó không chủ động thiết lập kết nối. Nó phụ thuộc vào các máy khách bên trong LIS phát ra thủ tục đăng ký ATMARP. Một máy khách kết nối đến ATMARP sử dụng một kết nối ảo kiểu điểm -điểm. Máy chủ dựa vào kết nối đó sẽ truyền đi một yêu cầu InATMARP để xác định địa chỉ IP của máy khách. Bản tin trả lời InATMARP từ máy khách bao gồm các thông tin cần thiết để máy chủ ATMARP xây dựng bảng ATMARP của nó. Thông tin này được sử dụng để trả lời các yêu cầu ATMARP mà nó nhận được. Mỗi một máy khách kết nối với LIS phải biết địa chỉ để gửi các yêu cầu ATMARP. Địa chỉ này là địa chỉ của máy chủ ATMARP được đặt trong mỗi LIS. Trong một môi trường gồm các kết nối ảo chuyển mạch (SVCs) thì các yêu cầu ATMARP được chuyển đến máy chủ ATMARP để chuyển đổi từ địa chỉ IP của máy đích sang địa chỉ ATM của máy đích. Máy chủ này phải đáp ứng các yêu cầu của tất cả các thành viên trong LIS. Nếu LIS hoạt động trong môi trường chỉ có các kênh ảo cố định thì các máy trạm IP không cần phải gửi các yêu cầu ATMARP đến máy chủ ATMARP. 5.2.5.3.Các bước trong quá trình phân tích địa chỉ trong phương pháp IP truyền thống trên ATM Việc phân tích địa chỉ trong môi trường kênh ảo chuyển mạch dựa trên sự tương tác giữa máy chủ ATMARP và máy khách có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn đăng ký: Các máy khách đăng ký địa chỉ của mình với máy chủ ATMARP. Trước hết các máy khách cần được thiết lập bằng tay địa chỉ của máy chủ ATMARP và lưu trữ địa chỉ đó trong cơ sở dữ liệu của mình. Lúc khởi động, máy khách A đã biết trước địa chỉ của máy chủ ATMARP (S), nó thiết lập một kết nối ảo đến máy chủ S và gửi đi bả