1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc làm cho tiếng
Trung (hay còn gọi là tiếng Hán, tiếng Hoa) thực sự trở thành một công cụ giao
tiếp quan trọng trên trường quốc tế. Tại Trường Đại học Sư phạm TPHCM, số
lượng sinh viên khoa tiếng Anh đăng ký học tiếng Trung như ngoại ngữ hai hiện
nay lên đến con số hàng trăm. Số sinh viên này khi tốt nghiệp sẽ là nguồn nhân
lực biết sử dụng cả hai ngôn ngữ quốc tế quan trọng bậc nhất. Điều đó cho thấy
công tác giảng dạy tiếng Trung tại khoa này không những đáp ứng nhu cầu của
sinh viên mà còn góp phần cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.
Do đó, nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Trung cho sinh viên khoa Anh là vấn
đề cần được chú trọng.
Sinh viên khoa Anh là những đối tượng có điểm tuyển sinh đầu vào cao và
có năng lực tiếng Anh vững chắc. Mặt khác, tiếng Anh được đưa vào giảng dạy ở
nhà trường phổ thông từ năm lớp sáu. Như vậy, tính đến thời điểm bước vào đại
học, bất cứ sinh viên nào cũng đã tiếp xúc với tiếng Anh ít nhất tám năm. Vì đặc
điểm này, thiết nghĩ, đối chiếu tiếng Trung và tiếng Anh là một kênh nghiên cứu
có tiềm năng khai thác để ứng dụng vào công tác giảng dạy tiếng Trung, tạo điều
kiện cho sinh viên học tập ngôn ngữ mới thông qua một ngôn ngữ gần gũi khác
bên cạnh tiếng Việt.
Đối chiếu hai ngôn ngữ là một công việc phức tạp và đòi hỏi tốn rất nhiều
công sức. Với năng lực, kiến thức còn hạn chế, tôi đã chọn nghiên cứu và đối
chiếu kết cấu “số + lượng + danh” và kết cấu biểu thị thứ tự của tiếng Trung với
thành phần tương đương của tiếng Anh. Tôi nhận thấy rằng, đây là những kết cấu
mang những nét đặc biệt, thể hiện sự khác biệt về đặc điểm loại hình của hai
ngôn ngữ, việc đối chiếu có thể ứng dụng vào công tác giảng dạy.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 411 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đối chiếu kết cấu “Số + Lượng + Danh”, kết cấu biểu thị thứ tự trong tiếng Trung và tiếng Anh và ứng dụng của việc đối chiếu vào giảng dạy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 
 46 
ĐỐI CHIẾU KẾT CẤU “SỐ + LƯỢNG + DANH”, KẾT CẤU 
BIỂU THỊ THỨ TỰ TRONG TIẾNG TRUNG VÀ TIẾNG ANH 
VÀ ỨNG DỤNG CỦA VIỆC ĐỐI CHIẾU VÀO GIẢNG DẠY. 
Phạm Ngọc Đăng 
(Sinh viên năm 4, Khoa Tiếng Trung) 
GVHD: TS. Vương Khương Hải 
1. Lý do chọn đề tài 
Những năm gần đây, sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc làm cho tiếng 
Trung (hay còn gọi là tiếng Hán, tiếng Hoa) thực sự trở thành một công cụ giao 
tiếp quan trọng trên trường quốc tế. Tại Trường Đại học Sư phạm TPHCM, số 
lượng sinh viên khoa tiếng Anh đăng ký học tiếng Trung như ngoại ngữ hai hiện 
nay lên đến con số hàng trăm. Số sinh viên này khi tốt nghiệp sẽ là nguồn nhân 
lực biết sử dụng cả hai ngôn ngữ quốc tế quan trọng bậc nhất. Điều đó cho thấy 
công tác giảng dạy tiếng Trung tại khoa này không những đáp ứng nhu cầu của 
sinh viên mà còn góp phần cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. 
Do đó, nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Trung cho sinh viên khoa Anh là vấn 
đề cần được chú trọng. 
Sinh viên khoa Anh là những đối tượng có điểm tuyển sinh đầu vào cao và 
có năng lực tiếng Anh vững chắc. Mặt khác, tiếng Anh được đưa vào giảng dạy ở 
nhà trường phổ thông từ năm lớp sáu. Như vậy, tính đến thời điểm bước vào đại 
học, bất cứ sinh viên nào cũng đã tiếp xúc với tiếng Anh ít nhất tám năm. Vì đặc 
điểm này, thiết nghĩ, đối chiếu tiếng Trung và tiếng Anh là một kênh nghiên cứu 
có tiềm năng khai thác để ứng dụng vào công tác giảng dạy tiếng Trung, tạo điều 
kiện cho sinh viên học tập ngôn ngữ mới thông qua một ngôn ngữ gần gũi khác 
bên cạnh tiếng Việt. 
Đối chiếu hai ngôn ngữ là một công việc phức tạp và đòi hỏi tốn rất nhiều 
công sức. Với năng lực, kiến thức còn hạn chế, tôi đã chọn nghiên cứu và đối 
chiếu kết cấu “số + lượng + danh” và kết cấu biểu thị thứ tự của tiếng Trung với 
thành phần tương đương của tiếng Anh. Tôi nhận thấy rằng, đây là những kết cấu 
mang những nét đặc biệt, thể hiện sự khác biệt về đặc điểm loại hình của hai 
ngôn ngữ, việc đối chiếu có thể ứng dụng vào công tác giảng dạy. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Bài nghiên cứu này chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, 
phương pháp đối chiếu. Cụ thể là nghiên cứu ba quyển Giáo trình Hán ngữ nằm 
trong phân phối chương trình tại khoa Anh, thống kê các kết cấu “số + lượng + 
danh” và kết cấu biểu thị thứ tự xuất hiện trong giáo trình, cuối cùng là phân tích 
chỉ rõ điểm khác biệt, tác dụng của việc đối chiếu. 
Năm học 2009– 2010 
47 
3. Kết quả nghiên cứu 
Kết cấu “số + lượng + danh” và kết cấu biểu thị thứ tự đều thuộc phạm vi 
liên quan đến định ngữ số lượng trong tiếng Trung. Định ngữ là thành phần phụ 
trong câu, phụ thuộc về ngữ pháp vào danh từ và có chức năng nêu thuộc tính, 
đặc trưng của sự vật, hiện tượng, Sự khác biệt lớn đầu tiên giữa định ngữ tiếng 
Trung và tiếng Anh nằm ở vị trí của nó đối với danh từ trung tâm (trung tâm ngữ). 
Trong tiếng Anh, các loại định ngữ nằm trước trung tâm ngữ bao gồm: định ngữ 
chỉ định từ (mạo từ, tính từ chỉ định, tính từ sở hữu, sở hữu cách), định ngữ tính 
từ (chỉ số đếm, thứ tự, tính chất, đặc điểm), định ngữ danh từ, định ngữ động từ. 
Các loại định ngữ nằm sau trung tâm ngữ bao gồm: định ngữ phó từ, định ngữ 
kết cấu giới từ, định ngữ kết cấu chủ - vị. Trong tiếng Trung, tất cả các loại định 
ngữ đều nằm trước trung tâm ngữ. Hai kết cấu “số + lượng + danh”, biểu thị thứ 
tự của hai ngôn ngữ này tuy tương đồng về mặt tương quan vị trí với trung tâm 
ngữ nhưng khác nhau trong cách thức cấu tạo và diễn đạt ý nghĩa. 
3.1. Kết cấu “số + lượng + danh” 
Thông qua thống kê và đối chiếu, kết cấu này được phân loại theo tiêu chí 
số lượng được biểu đạt: số lượng một và số lượng nhiều hơn một. 
3.1.1. Số lượng một 
Chúng ta cùng xem xét một vài ví dụ sau của tiếng Trung: 一本书 (một 
cuốn sách), 一台电脑 (một cái máy vi tính), 一个人 (một con người/ một người), 
一支笔 (một cây viết). Trong các ví dụ trên, ứng với mỗi danh từ là một lượng từ 
(trong tiếng Việt quen gọi là từ chỉ xuất): 本 (cuốn, âm Hán – Việt: bổn/ bản), 台
(cái, âm Hán – Việt: đài), 个 (con, âm Hán – Việt: cá), 支 (cây, âm Hán – Việt: 
chi). Ngữ tương đương với các ví dụ này trong tiếng Anh có thể là: a book/ one 
book, a computer/ one computer, a man/ one man, a pen/ one pen. Như vậy, có 
hai điểm cần chú ý ở trường hợp số lượng một: (1) khi biểu thị số lượng một 
trong tiếng Anh, có thể dùng định ngữ là mạo từ bất định hoặc tính từ chỉ số 
lượng, trong tiếng Trung thì sử dụng thống nhất một kết cấu “số từ + lượng từ”; 
(2) lượng từ chỉ xuất hiện trong tiếng Trung, tiếng Anh không có thành phần ngữ 
pháp tương đương. 
3.1.2. Số lượng nhiều hơn một 
Trong trường hợp này, chúng ta tiếp tục bắt đầu từ những ví dụ trong tiếng 
Trung: 两本书 (hai cuốn sách), 四个国家 (bốn quốc gia), 五片叶子 (năm chiếc 
lá), 七座山 (bảy ngọn núi). Bốn ví dụ này tương đồng về cách thức cấu tạo của 
bốn ví dụ số lượng một ở trên: số từ + lượng từ + trung tâm ngữ (danh từ). Ngữ 
tương đương với bốn ví dụ này trong tiếng Anh là: two books, four countries, five 
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 
 48 
leaves, seven mountains. Khi biểu thị số lượng nhiều hơn một, bên cạnh số từ ở 
phía trước, trung tâm ngữ (danh từ) biến đổi để biểu thị số nhiều. Hình vị biểu thị 
số nhiều được thêm vào danh từ chính bao gồm: {-s}, {-es}. Ở trường hợp này, 
chúng ta thấy có điểm khác nhau về cách thức cấu tạo lẫn cách biểu đạt ý nghĩa 
trong hai ngôn ngữ. Thứ nhất, về mặt cấu tạo, lượng từ là thành phần nằm giữa 
số từ và trung tâm ngữ trong tiếng Trung, trong tiếng Anh chỉ có số từ nằm ngay 
sát phía trước trung tâm ngữ và không có thành phần nào xen vào. Thứ hai, về 
mặt biểu đạt ý nghĩa, do sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ nên thông tin được 
biểu đạt trong các ví dụ được hiển thị ở các vị trí khác nhau. Trong tiếng Trung, 
thông tin về số lượng hiển thị toàn bộ ở số từ. Trong tiếng Anh, ý nghĩa về số 
lượng được biểu thị không chỉ ở nằm số từ mà còn trong cấu tạo của bản thân 
danh từ chính. 
3.2. Kết cấu biểu thị thứ tự 
Bên cạnh kết cấu biểu thị số lượng, kết cấu biểu thị thứ tự là một dạng kết 
cấu ngữ pháp mà sinh viên tiếp xúc ngay từ những ngày đầu học tiếng Trung. 
Chúng ta có các ví dụ sau: 第一天 (ngày thứ nhất), 第二课 (bài thứ hai), 第四十
天 (ngày thứ bốn mươi). Phía trước số từ có xuất hiện tiền tố 第 (âm Hán – Việt: 
đệ) để biểu thị số thứ tự: 第一 (thứ nhất, âm Hán – Việt: đệ nhất), 第二 (thứ hai, 
âm Hán – Việt: đệ nhị), 第四十 (thứ bốn mươi, âm Hán – Việt: đệ tứ thập). Đằng 
sau số thứ tự có thể xuất hiện danh từ, hoặc lượng từ, hoặc kết cấu “lượng + 
danh”. Phần lớn các kết cấu biểu thị thứ tự khi làm định ngữ tu sức cho danh từ, 
thường yêu cầu có sự xuất hiện của lượng từ đằng trước trung tâm ngữ: 第二十
九届奥运会 (Thế vận hội lần thứ 29, Thế vận hội XXIX), 第三届大会 (Đại hội 
lần thứ 3, Đại hội III) ,第五本书 (Cuốn sách thứ năm). Quy tắc có thể rút ra khi 
sử dụng kết cấu biểu thị thứ tự trong tiếng Trung như sau: (1) thêm tiền tố 第 vào 
phía trước số từ để có số chỉ thứ tự, (2) đằng sau kết cấu chỉ thứ tự có thể là danh 
từ (lúc này kết cấu biểu thị thứ tự đóng vai trò là định ngữ, tu sức trực tiếp cho 
danh từ, cụm “số thứ tự + danh” trở thành một cụm danh từ quen thuộc, không 
cần lượng từ ở giữa hai thành phần này), (3) đằng sau kết cấu chỉ thứ tự có thể là 
lượng từ hoặc kết cấu “lượng + danh” (tần suất xuất hiện trong tiếng Hán của các 
trường hợp này thường không có quy tắc, tùy thuộc vào thói quen sử dụng của 
cộng đồng). 
Trong tiếng Anh, khi biểu thị thứ tự, cách thống nhất để chuyển từ số đếm 
sang kết cấu biểu thị thứ tự là như sau: thứ nhất, chuyển số đếm sang số thứ tự 
bằng cách thêm hậu tố “th” vào sau số từ (một số trường hợp có ngoại lệ, biến 
đổi bằng cách riêng); thứ hai, đằng trước số thứ tự thêm mạo từ xác định “the”. 
Chúng ta có thể có một vài ví dụ sau: four (bốn) – fourth – the fourth (thứ tư); 
Năm học 2009– 2010 
49 
one (một) – first – the first (thứ nhất), nine (chín) – ninth – the ninth (thứ chín); 
thirty-one (ba mươi mốt) – thirty-first – the thirty-first (thứ ba mươi mốt). Sau kết 
cấu này là danh từ (lúc này kết cấu biểu thị thứ tự làm định ngữ tu sức cho danh 
từ). 
Trong tiếng Anh và tiếng Trung, cách thức biểu thị thứ tự được trình bày ở 
trên chỉ là một phần trong số tương đối nhiều các cách biểu thị thứ tự, cách hình 
thành định ngữ biểu thị thứ tự. Tuy nhiên, đây là cách biểu thị cơ bản nhất và 
xuất hiện ngay trong giáo trình Hán ngữ được giảng dạy tại khoa Anh. 
Thông qua thống kê, phân tích, đối chiếu, tôi nhận thấy rằng có những nét 
khác biệt giữa kết cấu “số + lượng + danh” và kết cấu biểu thị thứ tự trong tiếng 
Trung với ngữ tương đương trong tiếng Anh. Do đó, chúng tôi hình thành hai sơ 
đồ sau thể hiện sự khác nhau trên để sử dụng trong quá trình giảng dạy: 
Hình 1. Sơ đồ cách chuyển đổi từ cụm danh từ có định ngữ mạo từ bất định, định 
ngữ số từ trong tiếng Anh sang kết cấu “số + lượng + danh” trong tiếng Trung 
Hình 2. Sơ đồ cách chuyển đổi từ cụm danh từ có định ngữ biểu thị thứ tự trong 
tiếng Anh sang cụm danh từ có định ngữ biểu thị thứ tự trong tiếng Trung 
Ghi chú: Dấu chéo (x) biểu thị sự tiêu biến của mạo từ xác định “the”. 
4. Kết luận, kiến nghị 
Bài nghiên cứu cho thấy, kết quả đối chiếu bước đầu chỉ ra những điểm 
tương đồng và khác biệt giữa các thành phần ngữ pháp, các kết cấu biểu thị ý 
nghĩa xuất hiện trong hai ngôn ngữ Trung – Anh. Đây là tiền đề để tiến hành 
những công tác nghiên cứu, đối chiếu sâu hơn nữa giữa hai ngôn ngữ này và ứng 
dụng vào công tác giảng dạy tiếng Trung tại khoa Anh. Trong kho khóa luận tại 
thư viện trường chúng ta, theo khảo sát, số lượng đề tài nghiên cứu đối chiếu 
Trung – Anh là rất ít, còn các đề tài nghiên cứu khả năng và phương pháp ứng 
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 
 50 
dụng đối chiếu vào công tác giảng dạy tiếng Trung cho sinh viên khoa Anh là 
hoàn toàn chưa có. Điều này cho thấy vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. 
Thiết nghĩ, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đối chiếu này và ứng dụng của nó 
vào giảng dạy. Kết quả thu được có thể áp dụng cho sinh viên khoa Anh và khảo 
sát hiệu quả của nó. Nếu thành công, phạm vi áp dụng cũng có thể được mở rộng 
sang các khoa có tổ chức giảng dạy tiếng Trung như ngoại ngữ tự chọn. Sinh 
viên các khoa khác cũng đã được học tiếng Anh từ lớp sáu, việc giảng dạy tiếng 
Trung thông qua phương pháp bắc cầu từ tiếng Anh để đối tượng sinh viên này 
có thể hiểu được tiếng Trung là hoàn toàn khả thi. Xa hơn nữa, việc đối chiếu 
nếu đạt kết quả tốt, có thể được sử dụng để biên soạn một số tài liệu phục vụ cho 
việc học tiếng Anh của sinh viên khoa Trung. Đây là một công việc đạt được 
hiệu quả hai chiều, sinh viên học tiếng Trung có cơ sở để nắm vững tiếng Anh và 
ngược lại. Đào tạo nguồn nhân lực biết và sử dụng tốt hai ngoại ngữ quan trọng 
nhất trên trường quốc tế là hoàn toàn phù hợp với sứ mạng của Trường Đại học 
Sư phạm TPHCM, nhu cầu của đất nước, cũng như nhu cầu phát triển của bản 
thân sinh viên. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] ĐH Ngôn ngữ Bắc Kinh (2004), Giáo trình Hán ngữ tập 1 quyển 1, 
NXB KHXH, Trương Văn Giới, Lê Khắc Kiều Lục biên dịch. 
[2] ĐH Ngôn ngữ Bắc Kinh (2004), Giáo trình Hán ngữ tập 1 quyển 2, 
NXB KHXH, Trương Văn Giới, Lê Khắc Kiều Lục biên dịch. 
[3] ĐH Ngôn ngữ Bắc Kinh (2004), Giáo trình Hán ngữ tập 2 quyển 1, 
NXB KHXH, Trương Văn Giới, Lê Khắc Kiều Lục biên dịch. 
[4] Lưu Nguyệt Hoa, Phan Văn Ngu, Cố Vĩ (2006), Ngữ pháp thực hành 
tiếng Hán hiện đại, Xưởng in sách Thương Vụ, Phần III, chương 3. 
[5] Paul Roberts (1956), Patterns of English; Harcourt, Brace & World, Inc; 
Part Four, 16. Noun clusters, page 77 – 95. 
[6] Rebecca E. Hayden, Dorothy W. Pilgrim, Aurora Quiros Haggard 
(1956), Mastering American English; Prentice-Hall, Inc; Unit One, part 
II, page 13; Unit One, part III, page 25 – 30.