TÓM TẮT
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa thì
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng sáng tạo, thích ứng nhanh môi trường làm
việc mới là điều kiện tồn tại của mỗi quốc gia, dân tộc. Với tư cách là một trong những thành tố quan
trọng của quá trình dạy và học, phương pháp là một hoạt động đặc biệt và luôn luôn phải thay đổi
để phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đòi hỏi của thời đại và phù hợp với yêu cầu của nhà tuyển dụng.
Những sự thay đổi đó đặt ra cho người dạy cũng như người học phải luôn tìm tòi, khám phá những
phương pháp dạy và học mới cho thích hợp, đó cũng là một trong những cơ sở quan trọng để nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 286 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới phương pháp dạy và học cơ sở nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC CƠ SỞ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRONG
BỐI CẢNH HIỆN NAY
Vũ Hồng Vận*, Hồ Đức Hiệp**
TÓM TẮT
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa thì
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả nĕng sáng tạo, thích ứng nhanh môi trường làm
việc mới là điều kiện tồn tại của mỗi quốc gia, dân tộc. Với tư cách là một trong những thành tố quan
trọng của quá trình dạy và học, phương pháp là một hoạt động đặc biệt và luôn luôn phải thay đổi
để phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đòi hỏi của thời đại và phù hợp với yêu cầu của nhà tuyển dụng.
Những sự thay đổi đó đặt ra cho người dạy cũng như người học phải luôn tìm tòi, khám phá những
phương pháp dạy và học mới cho thích hợp, đó cũng là một trong những cơ sở quan trọng để nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay.
Từ khóa: Phương pháp, dạy và học, sinh viên
INNOVATION METHODS OF TEACHING AND LEARNING, BASIC FOR
IMPROVING TRAINING QUALITY OF HUMAN RESOURCES
ON THE CURRENT CONTEXT
ABSTRACT
On the current, with the strong development of science and technology and the trend of
globalization, the training of high quality human resources, the ability to create and adapt quickly to
the new working environment is conditions exist of each nation, nation. As one of the key components
of the teaching and learning process, the method is a special activity and must always be changed to
fit the practical, demanding requirements of the age and suit. Employer requirements. These changes
set for teachers as well as learners to always explore, discover new teaching and learning methods
that are appropriate, which is also one of the important bases to improve the quality of human
resources on the current.
Keywords: Methods, teaching and learning, students
* Phân hiệu Trường ĐH Giao thông vận tải tại TP. HCM. Email: vhvan@utc2.edu.vn
** Phân hiệu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tại Thành phố Hồ Chí Minh
1. MỞ ĐẦU
Đổi mới phương pháp dạy và học là yêu
cầu tất yếu của cả giảng viên và sinh viên. Bởi
lẽ, đổi mới đối với người dạy là sự cải tiến, nâng
cao chất lượng phương pháp dạy học đang sử
dụng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc
dạy học; là sự bổ sung, phối hợp nhiều phương
pháp dạy học để khắc phục mặt hạn chế của
phương pháp đã và đang sử dụng nhằm đạt
mục tiêu dạy học; đối với người học là thay đổi
phương pháp đã và đang sử dụng bằng phương
pháp ưu việt hơn, đem lại hiệu quả học cao hơn,
để không những tiếp thu được kiến thức mà còn
trang bị cho bản thân những kỹ nĕng mềm cần
thiết, phục vụ cho học tập, giao tiếp, ứng xử và
hòa nhập vào môi trường làm việc sau này. Vì
thế, đổi mới phương pháp dạy và học được xác
định trong các vĕn kiện của Đảng, Nhà nước mà
119
Đổi mới phương pháp dạy...
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chỉ đạo triển khai,
nhằm đáp ứng yêu cầu của mục tiêu và nội dung
giáo dục mới.
Đổi mới phương pháp dạy và học ở bậc
đại học là vấn vấn đề cần thiết và cấp bách, đang
được cả xã hội chú ý và quan tâm. Việc đổi mới
phương pháp dạy và học đặt ra nhiều yêu cầu
đối với hoạt động dạy của giảng viên, hoạt động
học của sinh viên, và việc đổi mới phương pháp
đào tạo của Nhà trường. Mục đích của việc đổi
mới phương pháp dạy và học nhằm phát huy
tính tích cực của người học, rèn luyện khả nĕng
tư duy, tự học và tự nghiên cứu để thích ứng
ngay với môi trường ngoài xã hội.
Với ý nghĩa đó, đổi mới phương pháp dạy
và học ở bậc đại học chính là việc “lấy người
học làm trung tâm”, theo hướng phát huy tính
tích cực trong nhận thức của người học, hình
thành ở người học nĕng lực tự tìm tòi, khám
phá, nghiên cứu, sáng tạo, làm chủ tri thức
khoa học với sự tổ chức, hướng dẫn của người
dạy; nhằm đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đề
ra, góp phần đào tạo đội ngũ nhân lực chuyên
nghiệp cho đất nước.
2. NỘI DUNG
2.1. Sự cần thiết của việc đổi mới
phương pháp dạy và học bậc đại học
Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII
(12/1996) của Ban chấp hành trung ương Đảng
đã khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thu một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sang tạo của
người học. Từng bước áp dụng phương pháp
tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình
dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học,
tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại
học. Phát triển nhanh phong trào tự học, tự đào
tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân,
nhất là thanh niên”.
Theo Thông tư 04/2016/TT-BGDĐT
ngày 14/3/2016 của Bộ GD&ĐT và hướng dẫn
số 1075/KTĐBCL-KĐĐH ngày 28/8/2016 của
Cục Khảo thí & Kiểm định chất lượng giáo dục,
yêu cầu chuẩn đầu ra của các ngành đào tạo
là: đáp ứng yêu cầu nĕng lực đạt được khi tốt
nghiệp về kiến thức, kỹ nĕng, thái độ.
Sự thay đổi phương pháp tuyển sinh hiện
nay đã buộc các trường đại học phải không
ngừng thay đổi, nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực, tạo uy tín với xã hội mới có
thể thu hút được người học. Hay nói cách khác
chính là tạo thương hiệu cho chính ngôi trường
của mình.
Nĕm 2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) đã cho phép lao động có tay nghề cao
trong một số ngành của các quốc gia thành
viên được di chuyển tự do hơn trong khu vực,
sự cạnh tranh về việc làm ngày càng trở lên rất
khốc liệt. Nếu người lao động nước ta (đặc biệt
đối với các bạn sinh viên), ngoài việc học tập
kiến thức chuyên môn nghề cần thiết, nếu không
nâng cao kỹ nĕng sống có thể chúng ta có thể
khó kiếm được công việc phù hợp ngay chính
tại “sân nhà”.
2.2. Những bất cập trong phương pháp
dạy và học truyền thống
Theo Fire1, phương pháp dạy học truyền
thống (phương pháp thiên về thuyết giảng) là
“Hệ thống ban phát kiến thức”, là quá trình
chuyển tải thông tin từ đầu người thầy sang đầu
trò, và điều đó làm mất đi tính tích cực và khả
nĕng phát triển các kỹ nĕng mềm cần thiết cho
sinh viên. Thực tế giáo dục đại học ở Việt Nam
hiện nay vẫn đang diễn ra tình trạng đó, dù mức
độ phổ biến của nó không còn đậm đặc như
nhiều nĕm về trước.
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội
nhập sâu, rộng với thế giới và xu thế quốc tế
hóa đã đặt ra nhiều thách thức hơn cho nền giáo
dục Việt Nam nói chung và giáo dục đại học nói
riêng trong cuộc chạy đua, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn.
Tuy vậy, ở môi trường giáo dục đại học
của Việt Nam hiện nay mặc dù có nhiều thay đổi
1 Tên đầy đủ: Paulo Freire (1921 – 1997), nhà xã hội
học, nhà giáo dục học nổi tiếng người Brazil
120
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
(đặc biệt về mặt phương pháp), nhưng sự thay
đổi đó còn diễn ra một cách dè chừng và chưa
triệt để. Hay nói một cách khác, phương pháp
dạy học truyền thống vẫn còn khá phổ biến và
chiếm số nhiều trong các phương pháp dạy học
hiện nay. Thực trạng của phương pháp giáo dục
truyền thống hiện nay cho thấy xuất hiện nhiều
bất cập:
Về việc dạy của giảng viên: lớp học thụ
động thông qua các bài học, lấy giảng viên làm
trung tâm, giảng viên chú trọng vào thuyết trình
(thậm chí là chỉ đọc để sinh viên chép). Mấy
nĕm trở lại đây, khi các phần mềm ứng dụng
xuất hiện, có những giảng viên soạn sẵn Slide,
trình chiếu cho sinh viên xem, nói và phân tích
rất ít. Có những thứ thầy cô trình chiếu và thuyết
giảng giống như trong giáo trình, tài liệu.
Về việc học của sinh viên: sinh viên chỉ
việc ghi chép lại những lời giảng của thầy cô
một cách thụ động, máy móc. Lời nói của thầy
cô được coi là chuẩn mực, là chân lý và rất ít có
sự phản ứng hoặc ý kiến từ phía sinh viên.
Thực hiện cách dạy và học này, giáo viên
là người thuyết trình, diễn giảng, là “kho tri thức
sống”; sinh viên là người nghe, nhớ, ghi chép và
thực hiện theo.
Về chương trình học và đánh giá: môn học
được bố trí theo trình tự thời gian, đòi hỏi cần
có những đánh giá từ giảng viên bằng điểm số
thông qua điểm danh trên lớp, làm bài thi, hỏi
đáp từ giảng viên và sinh viên Chương trình
học được bố trí theo một khuôn mẫu có sẵn và
được áp đặt ngay từ đầu vào lớp học. Giảng viên
thực hiện giảng dạy tuần tự theo các chương,
tiết Công việc giảng dạy của giảng viên là yêu
cầu sinh viên thực hiện cùng một công việc, tại
cùng một thời điểm mà ít quan tâm đến hứng thú
và sở thích cá nhân của người học.
Tuy nhiên, nếu phủ định hoàn toàn phương
pháp dạy học truyền thống thì lại là sai lầm, đặc
biệt là phương pháp thuyết trình. Một câu hỏi đặt
ra là: phương pháp này phải có ưu điểm gì nên
mới được nhiều người sử dụng và sử dụng lâu
đến thế? Có những đánh giá tích cực về phương
pháp giảng dạy truyền thống, đã làm cho phương
pháp này được áp dụng rộng rãi trong một thời
gian khá dài. Cho nên đến tận ngày nay nó tồn
tại, phổ biến trong các trường đại học. Trên thực
tế, có những giáo sư, các nhà quản lý nổi tiếng
ở trong lĩnh vực mà họ là chuyên gia được mời
đến các trường đại học, hoặc viện nghiên cứu
để thuyết trình về một vấn đề nào đó. Những
buổi thuyết trình như vậy thường đem lại nhiều
thông tin mới mẻ, bổ ích. Người nghe còn thấy
lý thú vì học tập được cách lập luận cũng như ý
tưởng mới mẻ từ buổi thuyết trình. Một người
thầy giỏi khi sử dụng phương pháp thuyết trình,
không có nghĩa chỉ là truyền thụ kiến thức một
chiều, mà còn đặt ra nhiều câu hỏi mở đối cho
sinh viên, buộc sinh viên của mình phải tìm tòi
suy ngẫm, tìm hiểu phương pháp và cách thức
để đạt được tri thức.
2.3. Các phương pháp mới được sử
dụng và kết quả đạt được
Ở nhiều trường đại học hiện nay, phương
pháp dạy học tích cực đã được đưa vào thực hiện
và bước đầu đem lại hiệu quả được cả người dạy
và người học đánh giá cao. Nhiều phương pháp
mới đã được đưa vào áp dung như: các phương
pháp làm việc nhóm, bể cá vàng, sàng lọc, đóng
vai, vấn đáp, chuyên gia, trò chơikết quả đem
lại cho người học khá khả quan.
Ở phương diện người học, việc chỉ chĕm
chú ghi chép những lời giảng của thầy, coi đó
như là đáp án, rồi lấy kiến thức đi thi, đạt điểm
cao, rồi thỏa mãn cũng đã có sự thay đổi (thậm
chí là thay đổi nhanh). Nhiều sinh viên đã có
phản ứng với giảng viên về cách dạy thiên về
đọc chép, thậm chí là có ý kiến với Khoa, Nhà
trường, hoặc phản ứng trên các diễn đàn. Hiện
nay, ở nhiều trường, hệ thống đào tạo theo tín
chỉ đã cho phép sinh viên, ngoài việc tự xác định
số lượng tín chỉ để đĕng ký, thời gian học còn
cho phép sinh viên lựa chọn giảng viên. Chính
điều này đã bắt buộc nhiều giảng viên phải liên
tục đổi mới phương pháp dạy, tìm hiểu tri thức
121
Đổi mới phương pháp dạy...
mới, tránh nguy cơ bị đào thải bởi chính nơi mà
học đang công tác.
Ở phương diện người dạy, các giảng viên
thay vì chỉ tập trung vào thuyết trình, dùng
Slidenhững nội dung trong giáo trình thì đã
có sự thay đổi trong giờ giảng bằng việc kết
hợp nhiều phương pháp khác nhau. Người thày
đã chú trọng hơn đến hứng thú của người học,
biết lắng nghe và giải đáp các thắc mắc, ý kiến;
không chỉ trả lời trên lớp, người thày còn tương
tác với sinh viên bằng nhiều phương tiện và hình
thức khác nhau.
Từ việc thay đổi phương pháp dạy và
phương pháp học, tác giả nhận thấy giữa phương
pháp truyền thống và phương pháp mới đã có
sự khác biệt và phương pháp mới đem lại nhiều
tích cực, cụ thể:
Stt Nội dung PP truyền thống PP mới
1
Về
quan
niệm
Học là quá trình hập thụ và lĩnh
hội qua đó hình thành kiến thức,
nĕng lực, tư tưởng
Học là quá trình kiến tạo, người học tìm tòi,
khám phá tự hình thành nĕng lực, phẩm chất.
2
Về bản
chất
Truyền thụ tri thức và chứng minh
chân lí của giáo viên (cho con cá).
Tổ chức hoạt động nhận thức, hỗ trợ người học
tìm ra chân lí (đưa cần câu).
3
Về mục
đích
Chú trọng cung cấp tri thức, kỹ
thuật. Học để đối phó với thi cử,
nên sau khi học xong thường bị bỏ
quên hoặc ít dùng tới.
Chú trọng hình thành các nĕng lực: học để đáp
ứng yêu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai.
Những điều đã học cần thiết, hữu ích (chung
sống).
4 Về nội dung Từ sách giáo khoa và giáo viên
Từ nhiều nguồn: SGK, GV, thử nghiệm, thực
tế gắn với vốn thông hiểu, kinh nghiệm, nhu
cầu của người học; với hoàn cảnh, môi trường
cụ thể.
5 Về PP
Giảng giải truyền thụ một chiều là
chủ yếu (độc thoại).
Sinh viên nghe, nhìn, ghi chép.
Thực hiện bằng nhiều PP: tìm tòi, so sánh, điều
tra, khảo cứu, giải quyết vấn đề
6
Hình
thức tổ
chức
Cố định, gò bó trong khuôn khổ,
giới hạn giáo trình, thời gian,
không gian, người dạy đối diện
với cả lớp học.
Cơ động, linh hoạt, học ở lớp, phòng thí
nghiệm, thực tế, cá nhân, nhóm, đôi bạn, cả
lớp đối diện với người dạy, tranh luận (thậm
chí qua trang cá nhân, hộp thư)
7
Về
đánh
giá
Chủ yếu vai trò của người thầy,
dựa vào bài thi kết thúc HP.
GV đánh giá, SV đánh giá lẫn nhau, đánh giá
cả một quá trình.
2.4. Một số kiến nghị
Để phương pháp dạy và học mới đạt được
hiệu quả không chỉ nằm ở phương diện người
thày mà đỏi hòi phải có sự chuẩn bị chu đáo cả ở
giảng viên, sinh viên và cả nhà trường:
Đối với người thầy: người thầy phải chuẩn
bị rất nhiều về nội dung, phương pháp để thích
nghi với những thay đổi về chức nĕng, nhiệm vụ
rất đa dạng và phức tạp của mình. Thầy giáo vừa
phải có kiến thức chuyên môn sâu, rộng, có lòng
yêu nghề, biết ứng xử tinh tế, biết sử dụng các
thiết bị công nghệ thông tin vào dạy học. Người
thầy còn phải biết định hướng phát triển của
người học theo mục tiêu của mình đề ra, nhưng
cũng đảm bảo được sự tự do của sinh viên trong
hoạt động nhận thức. Ngoài ra, người thầy còn
122
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
phải biết lồng ghép việc giảng dạy chuyên môn
với việc trang bị các kỹ nĕng mềm cần thiết cho
sinh viên.
Đối với người học: dưới sự chỉ đạo của
người thầy, sinh viên phải dần dần có được
những phẩm chất và nĕng lực thích nghi với
phương pháp dạy học tích cực như: thấu hiểu
mục tiêu học tập, tự giác trong học tập, có ý
thức, trách nhiệm với chính bản thân mình và
với cả tập thể. Người học còn phải biết tự học
và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc và bằng mọi
cách. Có như thế, mới phát triển được tư duy
biện chứng, logicvà hình thành các kỹ nĕng
cần thiết.
Đối với nhà trường: cần chỉ đạo các khoa,
các Bộ môn chuyên môn đổi mới phương pháp
đánh giá, kiểm tra. Cần có sự giám sát việc thay
đổi phương pháp từ các khoa và các Bộ môn
chuyên môn. Chỉ đạo các khoa, Bộ môn chuyên
môn giao việc đánh giá cho người thày, với mục
đích hướng tới với việc kiểm tra, đánh giá kết quả
của người học sẽ công bằng, khách quan; chú ý
hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của
người học. Thay như nhiều trường hiện nay đang
làm là đánh giá người học bằng những bài kiểm
tra khô cứng và ít đem lại kết quả thực tế.
3. KẾT LUẬN
Việc đổi mới phương pháp dạy và học
hiện nay là cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, để
việc đổi mới phương pháp tự phát mà không có
sự định hướng, không có sự giám sát, đánh giá
một cách khoa học thì kết quả có khi là phản
tác dụng. Nếu người thầy thi nhau áp dụng các
phương pháp thiên về tính kỹ thuật sẽ làm cho
sinh viên mất tập trung, kiến thức chính cần
truyền đạt lại không được bao nhiêu. Người học
không xác định cho mình một phương pháp học
tập và rèn luyện thích hợp có thể dẫn đến kết quả
học tập không như mong muốn.
Nhà trường cần triển khai công tác trợ
giảng, hỗ trợ đắc lực cho cả giảng viên lẫn sinh
viên. Cung cấp đội ngũ trợ giảng cho giảng viên,
trợ giảng là cầu nối giữa giảng viên và sinh viên,
thực hiện hàng loạt nhiệm vụ nhằm giúp giảng
viên triển khai có hiệu quả các phương pháp
giảng dạy tích cực, trợ giúp và hướng dẫn sinh
viên nâng cao chất lượng theo phương pháp học
tập chủ động.
Không thể nói một cách “chủ quan” rằng
việc đổi mới đã làm cho sinh viên tiếp thu tốt
hơn, mà chưa có một thước đo chung của các
nhà khoa học về giáo dục. Việc làm này không
thể do một cá nhân hay những giảng viên giảng
dạy chuyên môn thuần túy tự nghiên cứu, triển
khai mà là công việc của các đơn vị chuyên
trách về làm nhiệm vụ nghiên cứu dạy và học
đảm nhận.
Vì vậy, để việc đổi mới phương pháp
giảng dạy cần đi vào thực chất hơn, đem lại hiệu
quả cao hơn. Nhất là trong bối cảnh hội nhập sâu
rộng, đòi hỏi đội ngũ lao động được đào tạo có
trình độ, kỹ nĕng cao hơn, nếu không muốn thất
nghiệp. Việc cần thiết lúc này là không chỉ cá
nhân sinh viên, giảng viên, các trường đại học
mà cả nền giáo dục phải quyết tâm thực hiện
những nhiệm vụ đề ra, có như thế chất lượng
nguồn nhân lực của đất nước mới đáp ứng được
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; hội nhập kinh tế quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Nghị
quyết số 29 – NQ/TW ngày 4-11-2013 về đổi
mới cĕn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Vĕn kiện
đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XII, Nxb.
Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
3. Trần Kiểm (2016), Quản lý và lãnh đạo nhà
trường hiệu quả, Nxb. Đại học Sư phạm.
4. Bùi Việt Phú, Lê Quang Sơn (2013), Xu thế
phát triển giáo dục, Nxb. Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội.
5. Nghiêm Đình Vỳ, Phạm Đỗ Nhật tiến (2016),
Cải cách giáo dục một số vấn đề chung và
thực tiễn ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia – Sự thật, Hà Nội.