Năm là, tăng cường trách nhiệm quản lý nhà
nước về thủy, hoàn thiện quy định quản lý nhà
nước về thủy lợi theo hướng tăng cường trách
nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về thủy
lợi; phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý thủy
lợi giữa trung ương và địa phương, tăng cường,
thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm để bảo đảm
tính nghiêm minh trong thực hiện pháp luật11
Cần xác định rõ nội dung của quản lý nhà nước
về thủy lợi trên cơ sở tích hợp các nội dung quản
lý nhà nước về tài nguyên nước, quản lý nhà nước
về đê điều, phòng chống thiên tai hiện hành về
vấn đề khai thác, sử dụng nước để bảo đảm việc
quản lý thủy lợi được toàn diện, không bị chia cắt
theo lĩnh vực. Theo đó nội dung quản lý nhà nước
về thủy lợi phải bao bao quát từ xác định nhu cầu
sử dụng nước, nguồn cung cấp nước đến đầu tư
xây dựng công trình và quản lý khai thác sử dụng
nước để có thể điều tiết giữa các khâu. Đồng thời,
cần quy định phân công rõ trách nhiệm của Bộ
NN&PTNT là Bộ chủ quản về thủy lợi và các bộ có
liên quan đến sử dụng nước như Bộ Công thương
đối với hồ, đập thủy điện; Bộ Giao thông với công
trình giao thông thủy; Bộ Tài nguyên môi trường
đối với quản lý tài nguyên nước, dự báo thời tiết,
thiên tai, về sử dụng đất để xây dựng công trình;
làm rõ quy định phân cấp trách nhiệm quản lý
nhà nước về thủy lợi giữa Trung ương và địa
phương, trong đó có 02 vấn để quan trọng. Đó
là phân cấp đầu tư xây dựng CTTL; quản lý khai
thác, bảo vệ CTTL, đặc biệt là vấn đề bảo đảm an
toàn công trình trên địa bàn để địa phương chủ
động nguồn lực trong đầu tư xây dựng, khai thác,
bảo vệ và bảo đảm an toàn công trình. Đồng thời,
cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử
lý nghiêm các vi phạm pháp luật.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 495 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới phương thức quản lý nhà nước hoạt động thủy lợi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6
Tóm TắT
Thời gian qua hoạt động thủy lợi đóng một vai
trò quan trọng trong nền kinh tế của một quốc
gia có thế mạnh về nông nghiệp như Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng như hiện nay, khái niệm và hoạt động thủy
lợi đã có nhiểu thay đổi, tiếp cận, kế thừa kinh
nghiệm quản lý hoạt động từ các nước tiên tiến
trên thế giới. Việt Nam đã ban hành nhiều chính
sách, pháp luật về quản lý thủy lợi. Tuy nhiên, để
quản lý nhà nước về thủy lợi trong tình hình mới
cần có những đổi mới trong phương thức quản lý.
Bài viết này khái quát lại thực trạng quản lý thủy
lợi nước ta, yêu cầu và giải pháp đổi mới quản lý
nhà nước về thủy lợi.
Từ khóa: phương thức quản lý, hoạt động thủy
lợi, đổi mới phương thức
I. Thực Trạng về quản lý Thủy lợI Trong ThờI gIan
qua
1. Vị trí, vai trò của công tác thủy lợi
Thủy lợi ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế , đời sống dân sinh, đảm bảo
an ninh nguồn nước. Theo đánh giá của Liên
hiệp quốc, trong thế kỷ 20 dân số thế giới tăng
lên 3 lần trong khi tài nguyên nước được khai
thác tăng lên 7 lần. Việt Nam có tài nguyên nước
phong phú, lượng nước bình quân đầu người trên
9.000 m3/năm. Ngành thủy lợi đã quản lý, khai
thác và sử dụng nguồn tài nguyên nước bước đầu
mang lại hiệu quả, đảm bảo nước cho sản xuất
nông nghiệp, phòng chống thiên tai và các ngành
kinh tế khác như giao thông, thủy điện, khai thác
cảnh quan du lịch, bảo vệ môi trường sinh thái...
Cụ thể: đối với sản xuất nông nghiệp, với các hệ
thống thuỷ lợi hiện có, tổng năng lực tưới của
toàn hệ thống bảo đảm cho khoảng 90% diện
tích đất canh tác, trong đó diện tích đất trồng
lúa được tưới đạt 7,482 triệu ha, 1,6 triệu ha rau
màu, cây công nghiệp ngắn ngày và cây dược liệu,
ngăn mặn cho 0,87 triệu ha, cải tạo chua phèn
1,6 triệu ha, tiêu nước cho trên 1,72 triệu ha đất
nông nghiệp và cấp khoảng 6 tỷ m3 nước phục vụ
sinh hoạt và công nghiệp. Các hệ thống công trình
thuỷ lợi tạo điều kiện phát triển đa dạng hoá cây
trồng nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
nâng hiệu suất sử dụng đất, phân bổ lại nguồn
nước tự nhiên, chống hiện tượng sa mạc hoá, cải
tạo đất, cải tạo môi trường theo chiều hướng có
lợi cho sản xuất và sinh hoạt, đã tạo điều kiện để
định canh, định cư, giảm nạn đốt rừng làm nương
của đồng bào miền núi. Đối với phòng chống lũ 1 Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường
2 Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
Nguyễn Vinh Hà1, Trần Ngọc Hoa2, Nguyễn Tiến Sửu2
7
lụt: đã xây dựng và củng cố được gần 6.000 km
đê sông, trên 2.000 km đê biển để chống lũ lụt
cho lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả, hơn
8.000 km bờ bao ở đồng bằng Sông Cửu Long
đã góp phần hạn chế tác hại của thiên tai, bảo
vệ và phát triển sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh
đó, các CTTL cũng đã tạo nên 56 tỷ KWh điện;
phục vụ hoạt động của trên 1.000 Nhà máy nước
ở gần 800 đô thị với tổng công suất cấp nước sạch
khoảng 7,4 triệu m3/ngày. Các CTTL như Thủy
điện Hòa Bình, Thủy điện Sông Đà, CTTL Hồ
Tiếng, Hồ Kẻ Gỗ... ngoài chức năng chính còn
kết hợp khai thác các hoạt động vụ phục vụ du
lịch, nuôi trồng thủy sản... tạo công ăn việc làm
cho người lao động. Điều này cho thấy, đóng góp
quan trọng của thủy lợi cho phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
2. Về quản lý nhà nước về hoạt động thủy lợi hiện
nay
Hiện tại, công tác quản lý nhà nước về thủy
lợi hiện nay được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật như: Luật Thủy lợi, Luật Đê điều, Luật
Tài nguyên nước, Luật Phòng chống thiên tai,
Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công,
Luật Ngân sách nhà nước, trong đó Luật Thủy lợi
là văn bản quy định một cách toàn diện nhất về
hoạt động thủy lợi.
Về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thủy
lợi: ở Trung ương là Bộ NN&PTNT, cơ quan giúp
Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thuỷ
lợi là Tổng cục Thuỷ lợi. Ở địa phương, trực tiếp
tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về thủy lợi là Sở
NN&PTNT, với các đơn vị chuyên môn giúp Sở là
chi cục thủy lợi, chi cục đê điều và phòng chống
lụt bão; cấp huyện có phòng nông nghiệp và cấp
xã là các tổ hợp tác dùng nước, tổ đội thủy nông
trực tiếp tổ chức quản lý khai thác CTTL dưới sự
quản lý trực tiếp của UBND cấp xã. Bên cạnh đó
còn hệ thống cơ quan tương ứng của Bộ TN&MT
quản lý về tài nguyên nước và hệ thống các cơ
quan chuyên ngành thuộc lĩnh vực giao thông,
điện lực... cùng tham gia phối hợp quản lý khai
thác, sử dụng nước, CTTL theo phân công, phân
cấp trách nhiệm.
Đối với quản lý khai thác CTTL: theo Pháp luật
về thủy lợi bao gồm: quản lý nhà nước đối với
hoạt động khai thác CTTL (do cơ quan quản lý
nhà nước thực hiện) và quản lý trực tiếp khai thác
CTTL (do doanh nghiệp thực hiện). Bộ NN&PTNT
quản lý đối với hệ thống CTTL liên tỉnh; UBND
tỉnh quản lý CTTL ở địa phương. Về tổ chức khai
thác CTTL: Do đặc thù của công tác thủy lợi nước
ta chủ yếu do Nhà nước thực hiện nên việc phân
công, phân cấp trách nhiệm quản lý đối với CTTL
do nhà nước đầu tư được thực hiện theo phân
loại và phân cấp. Đối với CTTL được đầu tư từ
NSNN mang tính liên tỉnh thì giao Bộ NN&PTNT,
Hội đồng quản lý CTTL quản lý. Các CTTL ở địa
phương đầu tư từ NSNN giao cho các Công ty
TNHH một thành viên khai thác CTTL quản lý
khai thác hoặc giao tổ chức thủy lợi cơ sở thực
hiện (đối với CTTL nhỏ, nội đồng). Việc quản lý
được thực hiện theo kế hoạch giao hàng năm do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt với
nguồn lực cho duy tu, sửa chữa, nâng cấp CTTL
do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Về nguồn thu từ khai thác CTTL: Theo pháp
luật về thủy lợi thì nguồn tài chính được thu từ
nguồn thủy lợi phí và các nguồn thu khác. Tuy
nhiên, do công tác thủy lợi hiện nay tập trung chủ
yếu cho nhiệm vụ tưới tiêu, phòng chống thiên
tai... là các nhiệm vụ công ích lại được tính dưới
dạng phí nên nguồn này rất nhỏ, không đủ bù
đắp chi phí chi đầu tư xây dựng và quản lý khai
thác, bảo vệ CTTL; các nguồn thu khác hầu như
không có nên không đủ nguồn kinh phí để đầu
tư mới, sửa chữa, nâng cấp CTTL. Do vây, chất
lượng dịch vụ thủy lợi còn chưa cao, thất thoát
nước còn lớn; số lượng, năng lực khai thác của hệ
thống CTTL hiện nay bộc lộ nhiều yếu kém chưa
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của
phát triển kinh tế - xã hội.
Về bảo vệ, bảo đảm an toàn CTTL: việc bảo
vệ CTTL hiện nay được giao chủ yếu cho các chủ
quản lý khai thác công trình thực hiện. Tuy nhiên,
việc thực hiện trách nhiệm này còn có hạn chế
do chưa phân định rõ với trách nhiệm của chủ
đầu tư xây dựng. Mặt khác, việc thực hiện trách
nhiệm này còn gặp nhiều khó khăn do chưa xác
định mốc giới trên thực địa; an toàn công trình
chưa được bảo đảm do thiếu nguồn lực đầu tư
hoặc do thiếu quy định về quy trình khai thác
công trình.
II. Sự cần ThIếT phảI đổI mớI phương Thức quản lý
nhà nước về hoạT động Thủy lợI
Mặc dù có những thành tựu đáng kể trong
8
công tác thủy lợi như đã nêu trên nhưng việc
quản lý nhà nước về thủy lợi còn bộc lộ nhiều bất
cập, cụ thể:
Một là, việc quản lý hoạt động thủy lợi còn quy
định phân tán trong nhiều văn bản khác nhau
nên chưa thực sự tạo hiệu quả trong đầu tư, khai
thác CTTL. Cách hiểu, cách tiếp cận về quản lý
hoạt động thủy lợi còn chưa rõ ràng, mang tính
đơn ngành nên có sự cát cứ giữa các ngành có
liên quan đến sử dụng nước gây lãng phí nguồn
lực nhà nước, tạo sự chồng chéo trong quản lý.
Hai là, quản lý, khai thác CTTL là hoạt động
cung cấp dịch vụ về nước nhưng hiện nay chủ
yếu vẫn do nhà nước đầu tư, quản lý, chưa hoạt
động theo cơ chế thị trường, bảo đảm tài chính
bền vững cho các tổ chức quản lý, khai thác CTTL;
nguồn thu cho thủy lợi còn thấp, được thu dưới
dạng phí nên không đủ bù đắp chi phí khai thác,
duy tu bảo dưỡng công trình, chưa bảo đảm lợi
ích của chủ đầu tư. Do vậy, chất lượng sản phẩm
dịch vụ thủy lợi chưa đáp ứng được nhu cầu sử
dụng đa dạng hiện nay; khu vực tư nhân không
mặn mà tham gia đầu tư trong lĩnh vực này.
Ba là, việc phân công, phân cấp quản lý, khai
thác CTTL còn chưa bảo đảm tính đồng bộ, nhất
quán và toàn diện; trách nhiệm quản lý đối với
CTTL lớn, đa mục tiêu, đặc biệt là trách nhiệm
trong bảo đảm an toàn công trình còn chưa rõ
ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật nên việc
thực thi pháp luật về thủy lợi còn chưa nghiêm;
hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về thủy lợi
chưa cao.
Bốn là, vấn đề lợi ích trong khai thác, sử dụng
tài nguyên nước giữa thủy điện, thủy lợi và các
ngành kinh tế khác; quyền và trách nhiệm các
chủ thể trong quản lý, khai thác CTTL còn chưa
được xác định rõ trong văn bản pháp luật nên
việc phân bổ, điều tiết các nhu cầu sử dụng nước
trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn.
Năm là, vấn đề đầu tư xây dựng CTTL, bảo
đảm tài chính bền vững cho các đơn vị quản lý,
khai thác CTTL, chính sách ưu tiên đầu tư cho
thủy lợi trong thời gian tới trong bối cảnh chuyển
đổi từ bao cấp sang cơ chế thị trường cần còn
chưa có hướng dẫn, quy định cụ thể gây khó khăn
trong phát triển các loại hình khai thác, sử dụng
nước.
Trước nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội
nhập kinh tế quốc tế, quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa, chuyển đổi cơ cấu trong sản xuất nông
nghiệp; tác động của thiên tai và biến đổi khí
hậu, công tác quản lý thủy lợi đang đứng trước
các thách thức sau:
Bảo đảm chủ động nguồn nước trong hoạt
động thủy lợi trước tác động bất thường của thiên
tai và biến đổi khí hậu. Điều này đòi hỏi phải có
hệ thống hạ tầng trữ nước, điều chuyển nguồn
nước từ nơi thừa sang nơi thiếu.
Quản lý, điều tiết sử dụng nước để hài hòa lợi
ích của các ngành kinh tế có sử dụng nước. Hiện
khái niệm “CTTL” chưa được xác định rõ ràng,
hiện nhiều công trình khai thác, sử dụng nước
trên cùng một tuyến sông, trách nhiệm quản lý
các công trình này lại thuộc nhiều bộ quản lý khác
nhau gây khó khăn cho việc quản lý.
Phát triển hạ tầng thủy lợi, xây dựng, nâng
cấp, trong điều kiện nguồn NSNN còn hạn hẹp;
trên 70% CTTL lớn được Nhà nước đầu tư, xây
dựng cách đây 30- 40 năm đòi hỏi phải đầu tư lớn
cho nâng cấp, sửa chữa; nguồn lực huy động từ
tổ chức, cá nhân còn rất hạn chế.
Quản lý, khai thác sử dụng CTTL để bảo đảm
hiệu quả đầu tư. Hiện tại 100% CTTL do Nhà
nước đầu tư và giao cho các cơ quan Nhà nước
hoặc các đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, khai
thác, sử dụng. Việc quản lý thực hiện theo các kế
hoạch, quyết định hành chính, không hạch toán
chi phí sản xuất nên hiệu quả không cao (trong
lĩnh vực cấp nước tưới tiêu, thất thoát nước trên
30%); trách nhiệm của chủ quản lý công trình với
hiệu quả sử dụng công trình còn chưa rõ ràng;
việc sử dụng nước còn chưa tiết kiệm.
Tài chính đầu tư cho thủy lợi còn hạn chế; việc
đầu tư xây dựng, quản lý CTTL đều do Nhà nước
thực hiện trong điều kiện nguồn NSNN còn hạn
chế.
Tất cả các vấn đề trên đòi hỏi phải có sự thay
đổi cơ bản công tác quản lý thủy lợi, từ hành lang
pháp lý đồng bộ, đủ mạnh để giải quyết được
những vấn đề lớn, liên ngành đang đặt ra cho
công tác thủy lợi.
III. gIảI pháp đổI mớI quản lý nhà nước về Thủy lợI
Cần hoàn thiện pháp luật về quản lý thủy lợi và
đổi mới công tác tổ chức thực hiện bám sát định
hướng đổi mới của Đảng và Nhà nước, giải quyết
được các vấn đề thực tiễn đang đặt ra với công
tác thủy lợi, sử dụng tài nguyên thiên nhiên khôn
9
khéo, bảo đảm phát triển bền vững theo hướng:
đổi mới cách tiếp cận quản lý về thủy lợi từ đơn
ngành sang đa ngành; tăng cường đầu tư cho hạ
tầng thủy lợi; thúc đẩy sự tham gia của khu vực
tư nhân và xã hội hóa hoạt động thủy lợi; đổi mới
phương thức quản lý nhà nước về thủy lợi dựa
trên thành tựu KH&CN và tiếp cận quản lý nước
theo nhu cầu. Đồng thời, cần thực hiện các giải
pháp chính sau đây:
Một là, đổi mới công tác quản lý quy hoạch
thủy lợi, nâng cao chất lượng quy hoạch thuỷ lợi,
tăng cường quản lý nhà nước việc thực hiện quy
hoạch thủy lợi
Cần làm rõ nguyên tắc xây dựng quy hoạch
thủy lợi phải dựa trên nền tảng điều tra cơ bản về
thủy lợi, phù hợp với quy hoạch của các ngành,
lĩnh vực khác, đồng bộ và gắn kết chặt chẽ với kết
cấu hạ tầng và các quy hoạch có liên quan để bảo
đảm sử dụng đa mục tiêu, thống nhất trong tổ
chức thực hiện, khắc phục sự chồng chéo trong
quy hoạch liên quan đến khai thác, sử dụng tài
nguyên nước hiện nay; bảo đảm quản lý tổng hợp
tài nguyên nước, thống nhất theo lưu vực sông,
hệ thống CTTL, bảo đảm tạo nguồn, tích trữ, cân
đối, điều hòa, phân phối nguồn nước, giảm thiểu
rủi ro hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, sa mạc
hóa, lũ, ngập lụt, úng, ô nhiễm, suy thoái nguồn
nước và các thiên tai khác liên quan đến nước; hài
hòa các nhóm lợi ích trong sử dụng nước.
Về nội dung, quy hoạch thủy lợi, cần thể hiện
được các nội dung đổi mới trong quản lý thủy lợi
như dự báo xu thế phát triển và các kịch bản phát
triển nguồn nước trong bối cảnh chịu tác động
của biến đổi khí hậu, thiên tai, phát triển các lưu
vực sông; dự báo tiến bộ khoa học và công nghệ,
nguồn lực ảnh hưởng trực tiếp đến thủy lợi; xác
định về liên kết ngành, liên kết vùng; xác định
yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội đối với
thủy lợi; xây dựng phương án thủy lợi theo các
kịch bản phát triển trên phạm vi toàn quốc, vùng,
lưu vực sông, hệ thống CTTL, đơn vị hành chính.
Bảo đảm cân đối nguồn nước trong khai thác, sử
dụng.
Thẩm quyền, trách nhiệm xây dựng và tổ chức
thực hiện quy hoạch cũng cần xác định rõ cơ quan
chủ trì, cơ quan phối hợp thực hiện quy hoạch để
bảo đảm chất lượng quy hoạch, tránh cát cứ giữa
các ngành sử dụng nước như hiện nay trong xây
dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch
Hai là, hoàn thiện công tác quản lý về đầu tư
xây dựng CTTTL theo hướng phân định rõ trách
nhiệm chủ đầu tư, chủ quản lý CTTL và trách
nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực này để
phát triển mạnh đầu tư xây dựng hạ tầng thủy
lợi
Cần hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút đầu
tư từ mọi nguồn vốn cho công tác thủy lợi. Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá
nhân thực hiện đầu tư xây dựng hoặc hợp tác đầu
tư xây dựng CTTL theo hình thức đối tác công
tư. Phân định rõ nguồn đầu tư từ NSNN cho hoạt
động thủy lợi được sử dụng cho xây dựng CTTL
quan trọng đặc biệt, CTTL lớn, CTTL khó huy
động các nguồn lực xã hội. Tiếp tục hoàn thiện
hệ thống chính sách khuyến khích hợp tác công
tư trong hoạt động thủy lợi, chuyển dịch vai trò
của nhà nước từ cung cấp trực tiếp dịch vụ công
sang xây dựng khung pháp lý, chính sách hỗ trợ,
điều phối, giám sát thực hiện, nâng cao tính minh
bạch và trách nhiệm giải trình và hiệu quả vốn
đầu tư công. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý
để thúc đẩy hợp tác đầu tư công - tư, tập trung
vào một số lĩnh vực như nước sạch, lĩnh vực phát
triển tổ chức thủy nông cơ sở, chính sách thúc
đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng thủy lợi nội đồng.
Việc đầu tư xây dựng CTTL ngoài việc tuân thủ
pháp luật về xây dựng và quy định khác của pháp
luật có liên quan cần phù hợp với tính đặc thù
của hoạt động thủy lợi, được thực hiện theo tính
chất, phân loại, phân cấp công trình. Đồng thời,
việc đầu tư phải đáp ứng các yêu cầu như: phù
hợp với quy hoạch thủy lợi; áp dụng các giải pháp
để giảm thiểu tổn thất nước và giảm diện tích đất
phải sử dụng khi xây dựng công trình; phải tính
đến yếu tố kết nối giữa các CTTL, giữa CTTL với
công trình hạ tầng kỹ thuật khác có liên quan,
giữa các vùng, nguồn nước; đồng bộ từ công trình
đầu mối đến CTTL nội đồng, khép kín trong hệ
thống CTTL; kết hợp hài hòa giải pháp công trình
và phi công trình; bố trí đủ nguồn lực để thi công
công trình trong giai đoạn vượt lũ, chống lũ an
toàn; Bảo đảm an toàn CTTL. Đối với các CTTL
lớn, có liên quan chặt chẽ với an toàn cần phải
đáp ứng thêm các yêu cầu để bảo đảm an toàn,
ứng cứu công trình khi xảy ra sự cố; có quy trình
vận hành, phương án phòng chống thiên tai.
Về quản lý đầu tư, cần phân cấp mạnh trong
quản lý đầu tư xây dựng CTTL giữa Trung ương
10
và địa phương. Trung ương quản lý các công
trình mang tính chất liên vùng, đòi hỏi nguồn
vốn lớn, có tầm ảnh hưởng về kinh tế - xã hội,
công trình đòi hỏi yêu cầu cao trong vận hành;
các địa phương quản lý CTTL theo phân cấp quản
lý. Đồng thời, có chính sách huy động nguồn lực
để đầu tư xây dựng các CTTL lớn để điều tiết lũ,
kiểm soát triều, ngăn mặn, giữ ngọt, tiêu úng,
hạn chế các tác động của biến đổi khí hậu, nước
biển dâng.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về khai thác, bảo
vệ CTTL, bảo đảm an toàn CTTL: cần làm rõ các
nội dung quản lý, khai thác CTTL gồm: nguồn
nước (số lượng, chất lượng nước, dự báo, kiểm
kê nguồn nước trong hệ thống CTTL); quản lý
CTTL; giám sát, kiểm tra, kiểm định, đánh giá an
toàn CTTL và quản lý kinh tế; phân định rõ trách
nhiệm quản lý CTTL giữa chủ quản lý khai thác
với chủ đầu tư, xây dựng CTTL.
Xác định các loại hình tổ chức và phương thức
khai thác CTTL đối với công trình do nhà nước
đầu tư hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước
để có cơ chế quản lý thích hợp. Đối với công trình
do Nhà nước đầu tư thì cơ quan nhà nước quản lý
công trình quyết định phương thức khai thác; đối
với CTTL do tổ chức, cá nhân tự đầu tư xây dựng
thì tổ chức, cá nhân đó quyết định phương thức
khai thác.
Đổi mới công tác thực hiện nhiệm vụ đặt hàng,
đấu thầu quản lý khai thác CTTL thống nhất trên
phạm vi toàn quốc; tăng cường khai thác tiềm
năng của các CTTL phục vụ các mục tiêu du
lịch, dịch vụ cấp nước sinh hoạt, cấp nước công
nghiệp... để tạo nguồn thu cho duy tu, bảo dưỡng
công trình và quản lý vận hành. Bổ sung quy định
về đánh giá hiệu quả khai thác của CTTL, trên cơ
sở đó cơ quan quản lý nhà nước có thể đánh giá
được năng lực khai thác của các CTTL để từ đó
có giải pháp trong đầu tư, xây dựng, khai thác,
điều tiết nhu cầu sử dụng nước trong hoạt động
thủy lợi.
Về bảo đảm an toàn CTTL, cần xác định rõ
phạm vi bảo vệ CTTL; các hoạt động được phép
trong CTTL; trách nhiệm bảo vệ CTTL; xây dựng
phương án bảo vệ CTTL; huy động nguồn lực bảo
đảm an toàn CTTL trước sự cố. Cần quy định cụ
thể trách nhiệm của chủ đầu tư trong bảo đảm
an toàn khi xây dựng công trình, các phương án
bảo vệ CTTL, cắm mốc phạm vi bảo vệ CTTL trên
thực địa và trách nhiệm bảo đảm an toàn công
trình của các tổ chức, cá nhân có liên quan để
làm căn cứ cho việc thanh tra, kiểm tra và xử lý lý
phạm pháp luật về khai thác, bảo vệ CTTL. Điều
này sẽ trở nên đặc biệt quan trọng trong điều
kiện chuyển đổi cơ chế tài chính trong thủy lợi từ
“phí” sang “giá”.
Bốn là, đổi mới cơ chế quản lý tài chính trong
lĩnh vực thủy lợi, chuyển đổi từ cơ chế thu phí
sang giá thủy lợi theo cơ chế thị trường; bảo đảm
nguồn thu từ hoạt động thủy lợi đủ để bù đắp chi
phí sản xuất, giảm gánh nặng từ NSNN, người sử
dụng dịch vụ thủy lợi phải trả tiền.
Theo đó, hoạt động cung cấp dịch vụ thủy lợi
được thực hiện theo hợp đồng dân sự hoặc thỏa
thuận giữa tổ chức, cá nhân sử dụng sản phẩm,
dịch vụ thủy lợi. Đối với một số loại hình thủy
lợi phục vụ công ích thì Nhà nước cần có hỗ trợ
giá để bảo đảm ổn định sản xuất, đời sống người
dân. Do đó, cần quy định rõ, nguyên tắc và căn
cứ định giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi. Đối với
sản phẩm dịch vụ thủy lợi phục vụ công ích (đòi
hỏi Nhà nước phải có điều tiết giá), gồm: dịch
vụ tưới cho cây trồng và cấp nước cho sản xuất
muối, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi; tiêu, thoát
nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, khu vực
nông thôn và đô thị trừ vùng nội thị; thoát lũ,
ngăn lũ, ngăn triều cường, ngăn mặn, đẩy mặn,
rửa mặn, rửa phèn, giữ ngọt. Đối với sản phẩm,
dịch vụ thủy lợi khác (để phục vụ theo nhu cầu
thị trường) được thỏa thuận giữa người mua và
người bán như kinh doanh, du lịch và các hoạt