Vào những thập niên cuối thế kỉ XVII, lưu dân người Việt theo đường 
biển, ngược sông Tiền, qua cửa sông Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu tiến vào 
khai thác vùng Mỹ Tho ngày nay. Một bộ phận khác đi xa hơn đã đến tận 
Hà Tiên để sinh sống. Trong lớp dân cư mới đến vùng Đồng Nai -Gia 
Định. Hà Tiên vào thế kỉ XVII có một số đông người Hoa đến từ Quảng 
Đông, Quảng Tây... (Trung Quốc). Đến thế kỉ XVIII lại có thêm một số 
đông người Chăm gia nhập vào số cưdân ở đây. Đồng thời với những 
bước khai hoang của nhân dân lao động, chính quyền nhà Nguyễn đã giúp 
cho giai cấp địa chủ phát triển ở Nam bộ. Chính vì địa chủ là chỗ dựa cho 
chính quyền phong kiến nhà Nguyễn nên các vua nhà Nguyễn trong suốt 
nửa đầu thế kỉ XIX càng chú tâm phát triển giai cấp này. Triều đình nhà 
Nguyễn ra lệnh cho quan lại địa phương khuyến khích khai phá đất hoang. 
Người nông dân, nhất là người nông dân phiêu bạt đã khai hoang trồng 
trọt để sinh sống cho dù có sự khuyến khích của chính quyền hay không. 
Cũng như ở giai đoạn trước, người dân tự đi tìm đất khai phá gồm rất 
nhiều thành phần: những người dân phiêu bạt vì nghèo khổ, vì chiến 
tranh... từ các tỉnh Trung Bộ đi vào Nam tiếp tục làn sóng di dân đã diễn 
ra từ thế kỷ trước. Trong thành phần này còn có nhiều nông dân nghèo 
khổ đã sinh sống từ lâu ở Nam bộ. Ngoài những nông dân lưu tán còn có 
những người trốn tránh việc cấm đạo hay nghi kỵ tôn giáo của chính 
quyền nhà Nguyễn.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
12 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2253 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Dòng chảy văn hóa ẩm thực Thăng Long trên đất Nam bộ xưa và nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dòng chảy văn hóa ẩm thực Thăng Long trên 
đất Nam bộ xưa và nay 
Vào những thập niên cuối thế kỉ XVII, lưu dân người Việt theo đường 
biển, ngược sông Tiền, qua cửa sông Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu tiến vào 
khai thác vùng Mỹ Tho ngày nay. Một bộ phận khác đi xa hơn đã đến tận 
Hà Tiên để sinh sống. Trong lớp dân cư mới đến vùng Đồng Nai - Gia 
Định. Hà Tiên vào thế kỉ XVII có một số đông người Hoa đến từ Quảng 
Đông, Quảng Tây... (Trung Quốc). Đến thế kỉ XVIII lại có thêm một số 
đông người Chăm gia nhập vào số cư dân ở đây. Đồng thời với những 
bước khai hoang của nhân dân lao động, chính quyền nhà Nguyễn đã giúp 
cho giai cấp địa chủ phát triển ở Nam bộ. Chính vì địa chủ là chỗ dựa cho 
chính quyền phong kiến nhà Nguyễn nên các vua nhà Nguyễn trong suốt 
nửa đầu thế kỉ XIX càng chú tâm phát triển giai cấp này. Triều đình nhà 
Nguyễn ra lệnh cho quan lại địa phương khuyến khích khai phá đất hoang. 
Người nông dân, nhất là người nông dân phiêu bạt đã khai hoang trồng 
trọt để sinh sống cho dù có sự khuyến khích của chính quyền hay không. 
Cũng như ở giai đoạn trước, người dân tự đi tìm đất khai phá gồm rất 
nhiều thành phần: những người dân phiêu bạt vì nghèo khổ, vì chiến 
tranh... từ các tỉnh Trung Bộ đi vào Nam tiếp tục làn sóng di dân đã diễn 
ra từ thế kỷ trước. Trong thành phần này còn có nhiều nông dân nghèo 
khổ đã sinh sống từ lâu ở Nam bộ. Ngoài những nông dân lưu tán còn có 
những người trốn tránh việc cấm đạo hay nghi kỵ tôn giáo của chính 
quyền nhà Nguyễn. Trong các lưu dân khai phá còn có những cư dân định 
cư trong thôn ấp cũng góp phần vào việc khai hoang đất đai. Họ tiếp tục 
lấn dần vào vùng đất hoang vốn còn nhiều trong khu vực cư trú, nới rộng 
thêm diện tích cày cấy trồng trọt. Lúc này những người đi khai hoang đã 
được phép của chính quyền thành lập làng mới. Làng lúc đầu chiếm một 
diện tích rất rộng nhưng phần lớn còn hoang vu, dần dần đất đai trồng 
trọt được mở rộng, dân cư ngày càng đông đúc hơn, đến một lúc nào đó 
một phần đất đai và cư dân sẽ tách ra hình thành làng mới. 
Do điều kiện lịch sử như trên, cư dân Nam bộ gồm nhiều vùng miền, dân tộc 
khác nhau, qua đó phần nào tạo nên bản sắc ẩm thực cho vùng đất này. Các 
lưu dân khi rời xa quê hương để lập nghiệp, họ mang theo cả những món ăn, 
cách nấu của nhiều món ăn từ quê hương mình vào. Ẩm thực Nam bộ vì vậy 
được hình thành, có những món ăn mang hương vị rất riêng biệt, độc đáo 
của từng địa phương. Mỗi món ăn ở từng địa phương đều có nét riêng biệt, 
nhưng khi vào đến Nam bộ, tất cả đều mang phong cách của vùng sông nước 
phương Nam vốn rất hoang dã, hào phóng. Chỉ có những nguyên liệu rất 
đơn sơ, bình dị cũng tạo nên một phong thái riêng cho các món ăn ở đây. 
Ngày nay, có rất nhiều món ăn miền Nam là kết quả được tổng hợp và biến 
hoá từ nhiều nền văn hoá cũng như vùng miền khác nhau, trải qua chiều dài 
lịch sử kéo dài hàng mấy trăm năm. Món ăn Nam bộ ngày nay đã biến dạng 
vô cùng, từ món ăn thường ngày đến các món đãi tiệc. Khi đất nước ta phát 
triển, giao lưu văn hoá với nhiều nước trên thế giới, cũng chính là bắt nguồn 
cho sự biến hoá tiếp theo của các món ăn. Tuy nhiên, các món ăn này vẫn 
giữ được bản chất của nó dù rằng nguyên liệu và cách chế biến đã có phần 
thay đổi. 
 1. Các món ăn đặc trưng của Nam bộ 
Món ăn Nam bộ đa dạng, phong phú về nguyên liệu sử dụng và cách chế 
biến. Nét nổi bật của các món ăn trên vùng đất Nam bộ với nguồn thủy sản 
phong phú thể hiện sự hào phóng và hoang dã. Phong cách ẩm thực vùng 
sông nước Nam bộ đơn giản nhưng lại có sức hấp dẫn và thu hút người 
thưởng thức. Các món ăn của Nam bộ chính là sự thể hiện phong cách sống 
của người dân nơi đây từ khi tìm ra vùng đất mới khai hoang và lập nghiệp - 
một cuộc sống gần gũi gắn liền với thiên nhiên, sông nước và cũng chính 
thiên nhiên, sông nước ấy đã nuôi sống họ. Từ các nguyên liệu, người Nam 
bộ chế biến nhiều món ăn đậm chất miền Nam như món cá chiên xù, cua 
rang me, cua rang muối. Độc đáo mà bình dị như món bánh cóng Sóc Trăng, 
bánh giá Gò Công, lươn um lá cách hoặc món chả giò với vô vàn biến thể 
của nó. Bên cạnh đó là các món gỏi bồn bồn, gỏi ngó sen..., rất lạ miệng như 
món canh súng Phước Hải, gỏi da cá, gỏi sầu đâu... Các món lạ của miền 
Nam cũng nói lên tính chất phóng khoáng của con người ở đây, không theo 
một khuôn phép, mực thước nào cả. Cái lạ của món ăn miền Nam thể hiện 
qua sự phong phú của nguyên liệu và cách chế biến. Cá, tôm, cua, lươn, ếch 
hàng trăm loại, được chế biến từ mặn, ngọt, chua, cay, sống, chín đa dạng. 
Thật ra cái lạ ấy chỉ nổi bật trên cái nền hoang dã là vì trong quá trình đi 
khẩn hoang tìm vùng đất mới, người dân miền Nam đã phải trải qua nhiều 
khó khăn, thiếu thốn. Từ mọi thứ lá rừng, cây hoang khi nếm thử không thấy 
độc thì họ đều coi là rau ăn. Mọi con vật từ trên rừng xuống dưới sông, từ 
đồng ruộng cho đến biển tất cả đều có thể là thức ăn. 
 Gỏi bồn bồn tôm 
Các món ăn miền Nam gắn liền với cuộc sống lao động, điều kiện địa lí, gắn 
liền với truyền thống nông nghiệp lúa nước, do đó không cầu kì, tỉ mỉ, sang 
trọng như các món ăn Huế, không mực thước, thanh tao như món miền Bắc. 
Tất cả thể hiện sự thật thà và lối sống chân lấm tay bùn của người dân ở đây. 
Các món miền Nam như món canh chua thể hiện sự trù phú về sản vật của 
miền đất mới: nước canh thì chua, ngọt, mặn hòa hợp với nhau, cá thì để 
nguyên con hoặc cắt khúc lớn, và còn kèm nhiều món gia vị: rau thơm, cà 
chua, đậu bắp... vừa thơm lại vừa thật cay. Món lẩu mắm cũng vậy, nó thể 
hiện khá đầy đủ các chủng loại thực phẩm và nhiều mùi vị... 
Trong thực đơn phong phú, đa dạng của các món thủy sản Nam bộ ngày nay, 
nét đặc sắc của những món ăn từ thời khẩn hoang có phần nào giảm đi do 
nguồn nguyên liệu từ thiên nhiên dần dần được thay thế bằng các nguyên 
liệu nuôi, thả; điều kiện thực hiện theo kiểu công nghiệp cũng không cho 
phép. Tuy vậy, các món thủy sản miền Nam vẫn là những món ăn mang đặc 
tính chung của miền Nam là tính tổng hợp và biến hoá, phối hợp từ ý tưởng 
của các vùng miền, địa phương và của các dân tộc khác. Các món ăn đa 
dạng này thường tập trung ở các trung tâm đô thị lớn, trong đó Sài Gòn là 
trung tâm kinh tế và du lịch của miền Nam. Đây cũng là nơi hội tụ sản vật 
“tứ xứ” với đủ loại thực phẩm và các món ăn của mọi miền đất nước, trong 
đó các món ăn Nam bộ chiếm đa số và được hầu hết khách ưa chuộng. Các 
vị chua, ngọt, béo đậm đặc trưng của miền Nam cũng dần dần được điều 
chỉnh cho phù hợp với các vùng miền khác nhau, mang tính đại chúng và dễ 
chấp nhận hơn. Điều đó cho thấy sự phát triển của các món ăn Nam bộ trong 
tổng thể văn hoá ẩm thực của cả nước, tạo sự dung hòa và phong phú cho 
văn hoá ẩm thực Việt Nam. Món cá lóc nướng trui, có từ thời khẩn hoang 
lập đất, có được chính từ vùng đồng bằng sông Cửu Long đến nay trở thành 
món ăn của mọi nơi, mọi nhà. Cá lóc nướng trui có lẽ là món ăn phổ biến mà 
cư dân miền Nam ở thôn quê rất thích do dễ chế biến, nguyên liệu đơn giản 
mà hấp dẫn, nhậu thì rất “bắt”... Ở thôn quê khi nướng trui không bao giờ 
người ta dùng vỉ nướng và than hồng như nướng các thức ăn khác, mà là 
nướng trên lửa ngọn, lửa rơm. Chẻ một que tre tươi vót nhọn một đầu, xiên 
suốt từ miệng đến đuôi cá, cắm đứng xuống đất, phủ rơm khô lên đốt. Khi 
rơm tàn cũng là lúc cá chín, mùi thơm bốc lên là ăn được. Điểm quan trọng 
của món ăn là cá phải tươi, sống... Ở thành phố hay trong các nhà hàng, 
không có điều kiện để thực hiện như cách trên do thiếu rơm và cũng không 
có chỗ để cắm cá. Hơn nữa thực hiện cách này phải bắt thực khách chờ đợi 
khá lâu, vì vậy món cá nướng được chế biến bằng cách gói giấy bạc, bọc loại 
đất sét nhân tạo, nướng chín sau đó cho vào ống tre nhằm mục đích tạo ấn 
tượng cho người ăn mà thôi. Tuy nhiên dù theo cách chế biến nào, điều quan 
trọng trong món cá nướng trui là cá phải còn sống, lửa vừa độ để cá chín mà 
không bị khô và quan trọng hơn hết là muối ớt chấm kèm với món ăn phải 
dùng loại muối hột, hay như cách gọi trong dân dã là muối “cục” thì mới 
ngon. Hoặc từ món mắm kho dân dã khi vào đến thành phố đã biến hoá trở 
thành món lẩu mắm nổi tiếng và là món đặc trưng Nam bộ được đem ra giới 
thiệu cùng du khách các nơi. Xuất phát từ món mắm và rau hay món mắm 
kho, ảnh hưởng món bún nước lèo nấu cá với ngãi bún của người 
Campuchia, lại được thêm thắt nguyên liệu thịt quay theo khẩu vị của người 
Trung Hoa. Khi xuất hiện ở các nhà hàng lớn, nó lại có thêm các nguyên liệu 
hải sản như tôm, mực cho thêm phần phong phú và trở thành món ăn nổi 
tiếng của miền Nam. 
2. Những món ăn Nam bộ chịu ảnh hưởng ẩm thực Thăng Long – Hà 
Nội 
Chịu ảnh hưởng ẩm thực Thăng Long, trước tiên phải nhắc đến món phở của 
Sài Gòn. Nói phở Sài Gòn chứ không nói phở Nam bộ, vì không đâu ở miền 
Nam, phở nhiều như ở Sài Gòn. Đi dần về miền Tây, người ta ít thấy phở 
hơn. Mặc dù món phở cũng có xuất phát từ miền Bắc, nhưng có lẽ người Sài 
Gòn ăn phở cũng nhiều không kém người dân Thăng Long. Từ rất lâu, Sài 
Gòn đã nổi tiếng với các tiệm Phở Hòa, Phở tàu bay. Gần đây, thương hiệu 
Phở 24 đưa món phở Việt Nam nhân rộng khắp các tỉnh thành trong nước và 
nhiều nước khác nữa, mà xuất xứ của Phở 24 thì lại là từ Sài Gòn, từ một 
chủ doanh nghiệp người Sài Gòn. Ăn phở Sài Gòn khác nhiều so với phở 
Bắc, tuy rằng cách nấu đều từ xương bò ninh kỹ với củ hành nướng, gừng 
nướng nhằm làm mất mùi gây gây của xương bò, cũng các loại gia vị như 
hoa hồi, quế, đinh hương... thành phần và tỷ lệ có thay đổi khác nhau tùy 
công thức nấu của mỗi hàng quán. Dù vậy, trước hết là sự khác nhau về vị. 
Nước dùng phở của Nam bộ dứt khoát phải thật đậm đà, là cái ngọt từ xương 
bò thật đầy và hầm đủ thời gian để nước ngọt đậm. Gia vị ngoài vị mặn, ngọt 
của xương còn là vị ngọt của đường. Người Nam bộ có thói quen ăn ngọt, 
món canh, món xúp, món bún và tất nhiên cả món phở đều có đường. Tuy 
nhiên, độ ngọt của món ăn ở từng địa phương có khác nhau. Người Sài Gòn 
biết gia giảm vị mặn, vị ngọt sao cho cân bằng, để người thưởng thức chỉ 
cảm nhận vị ngon trong tô phở chứ không có cảm giác khó chịu vì vị ngọt 
của đường. Tô phở miền Nam, ngoài tương đen và tương đỏ, còn phải được 
dọn chung với chanh tươi, ớt sừng tươi xắt lát và các loại rau húng cây, húng 
quế, ngò gai. Nhiều tiệm phở miền Nam còn dọn chung với cả rau om. Giá 
trụng hoặc giá sống và hành chần được thực khách gọi thêm, nhưng cũng là 
những thành phần hầu như không thể thiếu trong món phở. Tô phở ở miền 
Nam có nhiều phụ liệu như vậy, thế mà khi dùng, thực khách khi thì còn gọi 
thêm chén tái, chén nước tiết, chén bò viên hay chén trứng nữa! 
Bên cạnh phở, người Nam bộ từ lâu đã rất quen với các món bún. Bún miền 
Nam rất đa đạng ngoài món bún mắm, bún nước lèo chịu ảnh hưởng ẩm thực 
người Chăm vùng tây Nam bộ, còn có các món bún giò heo, bún riêu, bún 
ốc, bún thịt nướng, bún nem, bún bì... Món bún riêu từ lâu đã rất quen với 
người dân Nam bộ, với phần váng cua và màu đỏ cam của cà chua xào thơm 
với củ hành tím phi vàng. Tô bún riêu của người Nam bộ tuy có xuất phát 
đầu tiên từ món bún riêu của miền Bắc, nhưng vào đến miền Nam, nó đã 
thay đổi rất nhiều. Món ăn Thăng Long - Hà Nội thì luôn có đặc tính thanh 
cảnh, thuần túy nổi bật vị của nguyên liệu chính trong đó. Vị là vị ngọt 
thanh, không đường, ít mặn, vì vậy món bún riêu truyền thống của miền Bắc 
chỉ là nước và riêu cua đồng, ăn với bún, rau và mắm tôm. Còn món bún 
riêu miền Nam thì ngoài vị ngọt của cua đồng, nước dùng còn được nấu với 
sườn non để tăng độ ngọt đậm đà cho món ăn. Màu sắc tô bún miền Nam 
tăng phần hấp dẫn nhờ cà chua xào lấy màu, thêm một ít màu lấy từ loại hạt 
điều chuyên dùng tạo màu cho các món ăn. Nguyên liệu trong tô bún riêu 
miền Nam thì vô cùng đa dạng, không chỉ là phần váng riêu trong tô bún mà 
còn thêm vài miếng đậu chiên, miếng huyết heo. Rau các loại và mắm tôm 
thì dầu là tô bún riêu miền Bắc hay ở miền Nam cũng đều gần như bắt buộc 
phải có. Cách chế biến món ăn của miền Nam đa dạng, phong phú nhưng 
vẫn giữ được hương vị truyền thống của món ăn. Cách chế biến này gần đây 
cũng được nhiều người dân Thăng Long - Hà Nội ưa chuộng, và có thể thấy 
qua món bún riêu của Hà Nội giờ cũng có thêm đậu, thêm huyết, có nơi còn 
thêm cả thịt bò tái, tôm tươi nữa. 
Tương tự như món bún riêu, món bún ốc của Nam bộ cũng có xuất xứ từ 
món bún ốc truyền thống của miền Bắc, nhưng cách nấu của người miền 
Nam thì rất khác. Món bún ốc của miền Bắc cũng là vị ngọt và chua nhẹ của 
giấm bỗng, không có chất béo vì ốc được luộc chín và khêu lấy thịt cho vào 
bát bún. Nhưng món bún ốc vào miền Nam thì được chế biến khác đi ít 
nhiều. Người miền Nam không có thói quen dùng giấm bỗng trong chế biến. 
Vì vậy, vị chua của giấm bỗng được thay bằng vị của cà chua. Nếu muốn 
chua hơn thì dùng thêm với nước me. Ốc thì lấy thịt và xào thật thơm rồi 
mới cho vào tô bún. Người miền Nam không bao giờ dùng nước luộc ốc để 
làm nước dùng. Nước dùng của bún ốc thì sử dụng nước ngọt nấu từ cua và 
sườn heo của món bún riêu. Do đó, món bún ốc của Nam bộ bao giờ cũng đi 
liền với bún riêu. Tô bún ốc miền Nam vì vậy nhìn béo ngậy. Người dân 
Thăng Long - Hà Nội vào Nam, ăn tô bún ốc và cho rằng nấu thế là không 
đúng, không có mùi giấm bỗng, không thanh tao. Ngược lại, người Nam bộ 
ra Bắc ăn bát bún ốc thanh cảnh đúng kiểu Thăng Long - Hà Nội thì lại cho 
là nhạt nhẽo, thiếu vị, thiếu béo. Thực ra trong ẩm thực không thể nói nấu 
thế nào là đúng hay sai. Dù món ăn có xuất xứ từ Thăng Long, nhưng trải 
qua quãng thời gian dài du nhập vào Nam, đã có biến đổi cho phù hợp khẩu 
vị, sở thích của người dân ở đây. Chỉ có thể nói là ngon hay không ngon, 
thích hay không thích chứ không phân tích đúng hay sai. Vị của món ăn đã 
khác nhau tùy theo thói quen ăn uống của từng địa phương, từng gia đình và 
vì vậy cả trong cách chế biến cũng sẽ có sự khác biệt. Sự khác biệt này ngoài 
nguyên nhân chính xuất phát từ thói quen ăn uống, còn do điều kiện thiên 
nhiên, xã hội. Tính chất của các nguyên liệu thực phẩm ở mỗi địa phương 
cũng có sự khác biệt. Tất cả các yếu tố đó tạo nên nét đặc trưng cho từng 
món ăn của các vùng miền. 
Tô bún ốc miền Nam 
Ngoài các loại bún nóng, ăn với nước dùng nóng, Nam bộ còn nhiều món 
bún dùng chung với nước mắm, như món bún thịt nướng, bún chả giò, bún 
nem, bún chạo tôm, bún bì, bún thịt bò xào... Trong đó món bún thịt nướng 
là món ăn có nhiều điểm tương đồng với món bún chả của người Hà Nội. 
Nói tương đồng vì chưa hẳn món bún thịt nướng là biến tấu từ món bún chả 
Hà Nội, vì thực tế, cách dùng bún tươi với các loại thịt, nem, chạo, bì với 
nước mắm pha và rau sống rất phổ biến đối với người Nam bộ. Cách ăn các 
món bún này cũng khác xa với món bún chả. Bún chả Hà Nội nguyên liệu 
chính là chả, tức thịt băm nhuyễn, viên thành viên tròn, dẹp và nướng vàng 
thả vào bát nước chấm. Nước chấm được pha thật nhạt, nhạt đến mức hầu 
như không cảm giác vị mặn trong đó. Bún và rau, chủ yếu là các loại rau 
mùi được dọn riêng. Tất cả cho lên mâm nhỏ. Khi thưởng thức, người ta gắp 
một ít bún và rau mùi, nhúng vào bát nước chấm có thả mấy miếng su hào 
ngâm chua. Món bún chả của Hà Nội ngoài chả còn là thịt nướng, vì vậy 
trông có vẻ rất giống món bún thịt nướng của Nam bộ. Tuy nhiên, cách đây 
khoảng mười năm, nhiều người dân Nam bộ có dịp đến Hà nội thưởng thức 
món bún chả Hàng Mành, hầu như không thể cảm nhận được cái ngon của 
món ăn. Lý do duy nhất chỉ vì loại nước chấm rất nhạt này. Có dịp dùng 
món bún thịt nướng Nam bộ mới thấy sự khác biệt với món bún chả và sự 
độc đáo trong món ăn này. Thịt nướng trong món ăn được ướp gia vị thật 
đậm đà, cân đối giữa các vị ngọt, mặn, thơm. Có nơi người ta còn cho thêm 
ít mè hoặc sả vào để khi nướng, thịt sẽ thơm ngon hơn. Rau thì đủ loại, nào 
là salad và các loại rau thơm xắt nhỏ, một ít giá sống bẻ gãy đôi, và đặc biệt 
không thể thiếu dưa leo bằm nhuyễn. Các loại rau này được xếp một bên, 
bún một bên. Trên là những miếng thịt nướng thơm phức. Như vậy cũng còn 
chưa đủ, trên cùng người ta còn cho thêm ít mỡ hành xanh biếc, và một 
nhúm đậu phộng rang vàng nữa. Món bún thịt nướng của Nam bộ chưa ăn 
chỉ nhìn thấy cách bài trí, màu sắc và mùi thơm cũng đã khiến người ta có 
cảm giác ngon miệng rồi. Cuối cùng là phần nước chấm. Người dân Nam bộ 
rất coi trọng phần nước chấm trong các món ăn. Nước mắm ăn bún thịt 
nướng phải đầy đủ vị ngọt, mặn vừa, chua nhẹ của chanh. Đặc biệt, bên trên 
phải phủ đầy màu đỏ tươi của ớt băm nhuyễn và những tép chanh mọng 
nước. Chén nước mắm cho món bún thịt nướng còn được làm phong phú 
hơn nhờ những sợi đồ chua là cà rốt, củ cải trắng ngâm giấm đường thả vào, 
tạo nên vị chua, ngọt và độ giòn tan khi thưởng thức. 
3. Ẩm thực Nam bộ, ẩm thực Thăng Long – Hà Nội trong sự phát triển 
chung của xã hội 
Ẩm thực là phần quan trọng tạo nên bộ mặt văn hóa của một địa phương nói 
riêng và của đất nước nói chung. Muốn theo kịp trào lưu phát triển kinh tế 
của các nước, cần tiếp nhận các nền văn hoá khác nhau của thế giới. Điều 
này góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế nước nhà, đồng thời là 
một yếu tố quan trọng thể hiện bộ mặt văn hoá của đất nước, thể hiện bản 
sắc Việt Nam. Ngày nay, ngành dịch vụ du lịch phát triển, càng có nhiều nhà 
hàng, quán xá mọc lên với đủ loại hình: sang trọng, lịch sự, bình dân... với 
rất nhiều loại món ăn đặc sản của các quốc gia, vùng miền khác nhau. Việc 
kinh doanh ăn uống không chỉ đơn thuần là kinh doanh mà còn là cơ hội 
nhằm giới thiệu, giao lưu về văn hoá ẩm thực đến với mọi người dân trong 
nước cũng như bè bạn khắp năm châu bốn bể. Món ăn miền Nam bản thân 
nó đã mang tính tổng hợp, nay càng cần có sự biến hoá cho phù hợp với yêu 
cầu này. Sài Gòn là nơi quy tụ nhiều nét văn hoá ẩm thực trong nước (Bắc - 
Trung - Nam), ẩm thực nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Hàn 
Quốc, Anh, Pháp, Mỹ...) nhưng nổi bật trong đó vẫn là ẩm thực Nam bộ. 
Nguồn nguyên liệu khác nhau tạo ra những món ăn đặc trưng ở từng địa 
phương nhưng vẫn đảm bảo được những tinh hoa cũng như hương vị nguyên 
thủy của món ăn. Để thích nghi với hoàn cảnh chế biến, vừa đảm bảo tính 
chuyên nghiệp trong phục vụ, đảm bảo an toàn thực phẩm, vệ sinh trong ăn 
uống, cách chế biến các món ăn ở từng vùng miền đã khác đi so với cách 
làm xa xưa nhưng vẫn phải đảm bảo được nét riêng của món ăn đó. 
Từng địa phương, có sự khác biệt về đặc điểm địa lí, khí hậu, thời tiết tạo 
nên sự khan hiếm một số loại thực phẩm, đặc biệt khi vùng miền này muốn 
thực hiện các món ăn ở vùng miền khác. Vì vậy, trong lĩnh vực ẩm thực cần 
có sự biến hóa, thay đổi trong chế biến cũng như năng động trong việc sử 
dụng nguồn thực phẩm. Khi muốn giới thiệu với thực khách một món ăn 
truyền thống của địa phương nào đó, ví dụ món phở Hà Nội, món bún ốc, 
bún chả của miền Bắc, tốt nhất vẫn phải tìm đúng nguồn nguyên liệu của địa 
phương đó. Ăn bún chả Hà Nội mà dùng với rau quế, húng cây của Sài Gòn 
thì không thể cảm nhận được cái ngon của món ăn. Đó phải là lá tía tô, 
nhánh húng Láng miền Bắc, ăn bún đậu thì phải là miếng đậu non của Hà 
Nội, sợi bún của Hà Nội. Còn khi chế biến các món ăn đó theo cách của 
miền Nam, phải cảm nhận được cái hồn trong con người Nam bộ, có hiểu 
biết về bản sắc văn hóa Nam bộ. Các món ăn đa dạng của cả nước thường tập 
trung ở các trung tâm đô thị lớn, trong đó Hà Nội và Sài Gòn là nơi tiếp thu khá 
nhanh với các món ăn mới. Đây cũng là nơi hội tụ đủ loại thực phẩm và các 
món ăn của mọi miền đất nước, thu hút được sự chú ý của thực khách các nơi 
cũng như mọi người ở đây, nó cũng là nguồn cảm hứng cho những đầu bếp 
sáng tạo ra những món ăn độc đáo từ nguồn những món ăn truyền thống của 
mọi vùng miền đất nước.