Dự báo lạm phát luôn là một công việc không dễ dàng.
Tuy nhiên, đây là công việc có ý nghĩa quan trọng đối
với nhà đầu tư và những nhà làm chính sách. Bài viết
này chúng tôi xem xét nguyên nhân lạm phát trong thời
gian qua và thiết lập mô hình dự báo lạm phát cho 5
tháng tới. Ngoài ra, chúng tôi cũng đánh giá những
chính sách tiền tệ khả dĩ trong thời gian tới.
30 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1704 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dự báo lạm phát và những giải pháp chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z
Dự báo lạm phát và những giải
pháp chính sách tiền tệ
Dự báo lạm phát và những giải pháp
chính sách tiền tệ
Dự báo lạm phát luôn là một công việc không dễ dàng.
Tuy nhiên, đây là công việc có ý nghĩa quan trọng đối
với nhà đầu tư và những nhà làm chính sách. Bài viết
này chúng tôi xem xét nguyên nhân lạm phát trong thời
gian qua và thiết lập mô hình dự báo lạm phát cho 5
tháng tới. Ngoài ra, chúng tôi cũng đánh giá những
chính sách tiền tệ khả dĩ trong thời gian tới.
* Download: Dự báo lạm phát và những giải pháp chính
sách tiền tệ
Mở đầu
Những lo ngại về nguy cơ lạm phát lại được nhiều
người quan tâm trong thời gian gần đây. Chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) tháng 11 tăng tăng 0.55%, cao hơn khá
nhiều so với mức 0.15% của tháng trước. Tính ra 10
tháng đầu năm CPI tăng 5.07%, đây là mức không cao
so với một số năm gần đây. Tuy nhiên, lạm phát đang
có dấu hiệu quay trở lại. Biểu hiện rõ nhất là giá xăng
dầu trong nước và nhiều mặt hàng tăng khá mạnh
trong thời gian gần đây.
Vừa qua Ngân hàng nhà nước (NHNN) thực hiện
những chính sách quyết liệt như: điều chỉnh lãi suất cơ
bản, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Các
biện pháp này có mục đích ngăn chặn nguy cơ về lạm
phát và bong bóng tài sản. Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và
một số tổ chức cũng đưa ra cảnh báo lạm phát của Việt
Nam có thể lên 2 con số trong năm 2010. Nhiều chuyên
gia kinh tế trong nước cũng cảnh báo những bất ổn vĩ
mô do lạm phát cao có thể xảy ra vào năm tới.
Như vậy, ngoài vấn đề tỷ giá thì lạm phát nổi lên như
một vấn đề kinh tế vĩ mô được quan tâm. Liệu lạm phát
cao có thực sự diễn ra trong thời gian tới hay không?
Để giúp người đọc có thể hiểu rõ về vấn đề này, tôi đã
đánh giá những yếu tố có thể tác động đến lạm phát,
dự báo lạm phát và những chính sách tiền tệ trong thời
gian tới.
1. Những yếu tố lý thuyết và thực tế về lạm phát
Lạm phát là sự tăng giá liên tục của các hàng hóa trong
nền kinh tế. Thông thường lạm phát được đo lường
bằng hai chỉ tiêu cơ bản là chỉ số giá tiêu dùng (CPI -
Consumer price index) và chỉ số khử lạm phát GDP
(GDP deflator).
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới lạm phát, trong bài viết
này chúng tôi chỉ xét 3 nhóm nguyên nhân chính yếu
dẫn tới lạm phát ở Việt Nam.
a. Lạm phát nguyên nhân tiền tệ (monetary
inflation)
Lạm phát do nguyên nhân tiền tệ xảy ra khi tốc độ tăng
trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự
của nền kinh tế. Sự mất cân đối này sẽ làm cho đồng
tiền bị mất giá.
Công thức mối quan hệ giữa thu nhập danh nghĩa PY
và lượng tiền M thể hiện qua công thức:
%ΔPMV = PY, công thức này biến đổi ra ta được =
%ΔM +%ΔV - %ΔY (*)
- %ΔP là % tăng lên của giá hàng hóa hay còn gọi là
lạm phát π (lạm phát π được đo lượng bằng GDP
deflator)
- %ΔM tăng trưởng của cung tiền
- %ΔV- Thay đổi trong vòng quay tiền
- %ΔY - Tăng trưởng thực của nền kinh tế
Qua công thức đó chúng ta sự tăng giá (%ΔP) vế phải
trái của phương trình (*) phụ thuộc vào 3 biến số của
vế phải, thay đổi cung tiền, thay đổi vòng quay tiền và
tăng trưởng thực của nền kinh tế.
b. Lạm phát do cầu-kéo (Demand pull – inflation).
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn
tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm
phát. Tổng cầu cao có thể xuất phát từ một số yếu tố
như do chính phủ chi tiêu quá mức khi thực hiện chính
sách tài khóa mở rộng. Hoặc, các hộ gia đình tăng chi
tiêu tiêu dùng quá mức khi lạc quan về triển vọng của
nền kinh tế.
c. Lạm phát do chi phí đẩy (cost push inflation)
Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát do thu hẹp tổng
cung hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng phải nâng
giá bán khi chi phí đầu vào tăng cao. Sự thu hẹp tổng
cầu có thể xuất phát từ sự khan hiếm về hàng hóa hay
thiên tai bất ngờ làm cho quá trình sản xuất bị gián
đoạn. Chi phí đầu vào tăng cao khi giá nguyên liệu đầu
vào tăng hoặc giá lao động tăng.
Trên đây chúng ta xét 3 nguyên nhân chính dẫn tới lạm
phát. Lạm phát cao của Việt Nam trong thời gian qua
cũng xuất phát từ 3 nguyên nhân này. Tuy nhiên, mỗi
giai đoạn thì các nguyên nhân đóng vai trò khác nhau.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nguyên nhân lạm phát
cao năm 2007 và 2008 do tiền tệ đóng vài trò chính.
Nguyên nhân về chi phí đẩy đóng vai trò hỗ trợ khi mà
giá cả nguyên vật liệu, hàng hóa trên thế giới cũng tăng
mạnh trong 2 năm đó. Nguyên nhân cầu kéo xuất phát
từ nhu cầu chi tiêu trong nước cao khi chính phủ và
người dân lạc quan trước viễn cảnh phát triển kinh tế
Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
2. Nhìn lại lạm phát trong thời gian qua
Năm 2008, lạm phát tính theo cuối kỳ đã lên tới 19.89%
và bình quân trong năm là 22.97%, đây là mức cao
nhất kể từ năm 1992 đến nay. Mức lạm phát cao này
đã để lại rất nhiều hệ lụy đối với nền kinh tế. Xem xét
lại nguyên nhân lạm phát trong thời gian qua giúp
chúng ta nhìn nhận rõ ràng hơn nguy cơ lạm phát trong
thời gian tới.
Biểu đồ sau ta thấy có một mối quan hệ khá chặt chẽ
giữa tăng trưởng tín dụng, cung tiền và lạm phát trong
năm 2007 và 2008. Những quan sát thực tế này phù
hợp với lý thuyết được nêu ra ở trên. Tăng trưởng cung
tiền M2 lên đỉnh điểm tháng 10/2007 đến tháng 1/2008
với mức xấp xỉ 50%. Tăng trưởng tín dụng lên mức
đỉnh trên 55% vào tháng 1 đến tháng 4 năm 2008 (so
với cùng kỳ năm 2007, thời đoạn 12 tháng). Hậu quả
CPI cũng lên mức cao nhất từ tháng 6 đến tháng 10
năm 2008 (quanh mức 28%). Như vậy, thường lạm
phát có độ trễ từ 5-7 tháng so với tăng trưởng tín dụng
và cung tiền M2.
Năm 2009, lạm phát ở mức thấp mặc dù tăng trưởng
tín dụng và cung tiền tăng khá mạnh kể từ mức đáy hồi
đầu năm. Rõ ràng tăng trưởng tín dụng và cung tiền
chưa tác động ngay đến chỉ số giá tiêu dùng nhưng có
thể để lại nguy cơ lạm phát cao trong những tháng tới.
Lý giải cho lạm phát cao năm 2008 còn có một nguyên
nhân quan trọng khác là do sự tăng mạnh của giá cả
nhiều hàng hóa đặc biệt là lương thực, thực phẩm và
năng lượng. CPI của lương thực, thực phẩm đã tăng
lên rất mạnh trong năm 2008, đỉnh điểm là CPI lương
thực, thực phẩm tăng 45.5% (YoY) vào tháng 6/08. Kết
thúc năm 2008 CPI lương thực tăng 31.86%. Trong rổ
hàng hóa tính CPI của Việt Nam, mặt hàng lương thực
chiếm tỷ trọng 43% nên CPI lương thực ảnh hưởng
mạnh đến CPI chung. CPI cơ bản (không bao gồm
lương thực, thực phẩm) năm 2008 chỉ tăng 10.92%.
CPI lương thực đã tăng chậm lại, thâm chí giảm kể từ
tháng 10 năm 2008. Tính đến tháng 11/2009 CPI lương
thực và CPI cơ bản lần lượt là 3.51% và 4.98% so với
cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, có thể thấy lạm phát
trong những tháng vừa qua chỉ tăng ở mức thấp do CPI
lương thực đã tăng chậm lại.
3. Đánh giá nguy cơ lạm phát trong thời gian tới
a. Cung tiền cao có thực sự tạo ra lạm phát?
Những chính sách thắt chặt tiền tệ quyết liệt của NHNN
trong thời gian qua cho thấy NHNN đang lo ngại tăng
trưởng tín dụng cao có thể dẫn tới lạm phát cao trong
năm 2010. Rõ ràng với mức tăng trưởng tín dụng trên
36% trong 11 tháng đầu năm thì đây là một lo ngại có
cơ sở. Tuy nhiên, thực tế liệu tăng trưởng tín dụng như
vậy có dẫn đến lạm phát cao cho năm 2010?
Nhìn lại quá khứ ta thấy, dù không bị ảnh hưởng trực
tiếp nhưng Khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997-
1998 cũng tác động mạnh đến kinh tế Việt Nam. Trước
tình hình đó, năm 2001 đến 2002 Việt Nam áp dụng
chính sách tiền tệ mở rộng. Tăng trưởng tín dụng năm
2001,và 2002 lần lượt là 32.07% và 37.14%, Tuy nhiên,
hai năm này lạm phát cũng chỉ ở mức 4.01 và 3.25%.
Đặc biệt năm 1999, tín dụng và cung tiền đều tăng đột
biến nhưng lạm phát ở mức rất thấp.
Như giải thích ở trên, thông thường lạm phát có độ trễ
là 5-7 tháng, tức là sau khi tăng trưởng cung tiền.
Ngoài ra, từ phương trình lý thuyết (*) được trình bày ở
trên ta thấy một biến quan trọng khác đó chính là %ΔV
(thay đổi vòng quay tiền). Biến vòng quay tiền thường
là một yếu tố khác nhau trong từng giai đoạn tùy theo
“sức khỏe” của nền kinh tế. Những thời kỳ kinh tế gặp
khó khăn, vòng quay tiền thường chậm lại do người
dân tăng tỷ lệ tiền tích trữ. Do vậy, tăng trưởng tín dụng
và cung tiền cao không gây ra lạm phát ngay lập tức.
Ngoài ra, trong thời kỳ suy thoái độ trễ của cung tiền
đến lạm phát cũng thường kéo dài hơn.
Vào tháng 8 năm nay, CPI đã xuống mức thấp nhất
1.97% so với cùng kỳ năm trước. Tương ứng vào
tháng đó tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 lần lượt
là 37% và 40%. Tuy nhiên, cách đó 8 tháng thì tăng
trưởng tín dụng vào cung tiền M2 đều ở mức 20%.
Tăng trưởng tín dụng lên cao nhất được thiết lập hồi
tháng 9 với mức 43.61%. Cung tiền M2 tăng 40.36%
trong tháng 8. Nếu đúng quy luật độ trễ tương quan
giữa lạm phát và tiền tệ xảy ra thì CPI sẽ tăng cao nhất
vào Q2/2010.
b. Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát do chi phí đẩy là một phần khá quan trọng
đóng góp vào lạm phát ở Việt Nam. Độ mở khá lớn của
nền kinh tế có tác động mạnh lên lạm phát loại này.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã lên
tới trên 160% GDP. Điều này cho thấy bất kỳ một sự
biến động nào của giá cả hàng hóa trên thế giới đều
tác động tới giá hàng hóa trong nước. Năm 2008,
lương thực, thực phẩm và năng lượng là những hàng
hóa biến động giá nhiều nhất. Chính điều này đã ảnh
hưởng mạnh trực tiếp đến giá nhiều mặt hàng ở Việt
Nam.
Từ tháng 9/2008, giá nhiều hàng hóa và năng lượng
giảm mạnh khiến cho lạm phát trong nước cũng bắt
đầu chững lại và tăng trưởng âm trong 3 tháng cuối
năm. Giá hàng hóa đã tăng lại từ tháng 4 năm nay và
hiện đang duy trì ở mức cách đây khoảng 2 năm. Lạm
phát của nhiều quốc gia trên thế giới đã bắt đầu tăng
sau một thời gian dài liên tục giảm. Thực tế, kiểm định
tương quan giữa CPI và chỉ số giá các mặt hàng cũng
có một mối quan hệ khá chặt chẽ.
Vừa qua, hầu hết các quốc gia đều thực hiện chính
sách tiền tệ và tài khóa mở rộng. Sở dĩ hiện nay giá
các hàng hóa chưa tăng mạnh là do kinh tế thế giới vẫn
chưa thực sự phục hồi, người dân vẫn đang hạn chế
chi tiêu. Như vậy, rõ ràng khi kinh tế thế giới thực sự
phục hồi thì các nước cũng phải đối phó nguy cơ lạm
phát.
Nhiều hàng hóa nhập khẩu lớn của Việt Nam cũng
đang tăng giá khá mạnh. Ngoài ra, việc VND mất giá
cũng khiến cho hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt đỏ
hơn. Chi phí cho sản xuất kinh doanh cũng tăng do
biến động về tỷ giá. Tuy vậy, cú sốc tỷ giá chỉ làm cho
CPI tăng ở một mức độ nhất định và không tạo ra lạm
phát kéo dài. Một nguy cơ của lạm phát chi phí đẩy
chính là việc điều chỉnh mức lương tối thiểu từ ngày
1/1/2010 cũng là tác nhân làm cho chi phí của doanh
nghiệp tăng lên.
c. Lạm phát do cầu kéo
Sự suy giảm kinh tế khiến cho người dân hạn chế chi
tiêu, bù vào đó thực hiện chính sách tài khóa mở rộng
cầu tiêu thụ khu vực chính phủ tăng mạnh. Ngoài ra,
chính phủ cũng thực hiện các gói kích cầu một cách
khá mạnh mẽ để vực dậy nền kinh tế. Trong thời gian
qua kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tăng trưởng khá
cao một phần nhờ các chính sách này. Thời gian gần
đây chúng ta cũng thấy nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt
hàng tiêu dùng đã tăng trở lại. Tuy nhiên, sắp tới với
việc tăng lãi suất và hạn chế tăng trưởng tín dụng thì
nhu cầu tiêu dùng sẽ giảm, đây có thể là một yếu tố
góp phần kiềm chế lạm phát trong thời gian tới. Nhìn lại
quá khứ, sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997
dù tăng trưởng tín dụng khá cao nhưng không dẫn tới
lạm phát là do nhu tiêu dùng sụt giảm.
4. Dự báo lạm phát bằng mô hình kinh tế lượng
Việc dự báo lạm phát luôn là một công việc không dễ
dàng. Từ lý thuyết và thực tế chúng ta thấy lạm phát
phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó có những
nhân tố rất khó xác định và thường xuyên biến động.
Tuy vậy, dự báo được xu thế của lạm phát có ý nghĩa
rất quan trọng đối với những nhà làm chính sách và
những nhà đầu tư.
Chúng tôi đã xây dựng mô hình dự báo dựa trên lý
thuyết về lạm phát nêu ở trên. Lạm phát phụ thuộc vào
cung tiền và sự tăng giá cả hàng hóa trên thế giới. Dữ
liệu CPI, tăng trưởng tín dụng, cung tiền M2 và chỉ số
giá hàng hóa được tính theo chu kỳ 12 tháng. Nguồn
dữ liệu cập nhật từ IMF, Tổng cục thống kê và NHNN,
từ tháng 1 năm 2007 đến tháng 11 năm 2009.
Kết quả dự báo
Với số mẫu quan sát là 35 chúng tôi đã xây dựng được
mô hình dự báo có R2 hiệu chỉnh 0.986 (mô hình giải
thích cho 98.6% biến động của CPI thực tế). Các hệ số
thống kê trong mô hình đều có mức độ ý nghĩa cao.
Đặc biệt mô hình biến động trên 5 thời đoạn nên cho
phép dự báo lạm phát xảy ra trước 5 tháng.
Mô hình dự báo cho ra kết quả CPI trong tháng 12 sẽ
tăng 1.27%, đây là mức khá cao so với những tháng
vừa qua. Với kết quả này, CPI năm 2009 lên tới 6.4%.
CPI theo tháng tăng cao nhất vào tháng 2/2010, với
mức tăng 2.76% so với tháng trước. Vào tháng 4 lên
mức 11.43% so với cùng kỳ năm trước.
Lưu ý kết quả của mô hình dự báo
Mô hình dự báo cho kết quả tương đối chính xác với
những số liệu quan sát trong quá khứ. Đặc biệt là độ
trễ dài có thể dự báo lạm phát xảy ra trước 5 tháng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay kinh tế có rất nhiều
biến động, những yếu tố ngoài mô hình liên tục thay đổi
có thể tác động đến kết quả dự báo. Do vậy, việc dự
báo lạm phát cho 5 tháng tiếp theo sẽ có thể có sai số
lớn. Dù vậy, mô hình này cũng có ý nghĩa quan trọng
để chúng ta thấy được xu thế lạm phát trong những
tháng sắp tới.
Trong mô hình này chúng tôi không dự báo cho CPI cả
năm 2010. Tuy nhiên, mô hình này chỉ ra CPI năm
2010 sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tiền tệ
trong nửa đầu năm 2010. Theo đánh giá của chúng tôi
CPI năm 2010 sẽ không quá cao do NHNN tiếp tục giữ
tăng trưởng tín dụng ở mức vừa phải và cầu tiêu dùng
chưa thể tăng mạnh. Ngoài ra, nguyên nhân quan trọng
cho lạm phát cao năm 2008 là cú sốc tăng giá lương
thực và năng lượng cũng khó có khả năng lặp lại vào
năm 2010.
5. Chính sách nào để kiềm chế lạm phát ?
Với việc tăng trưởng tín dụng và cung tiền rất cao trong
giai đoạn từ tháng 7 đến tháng 11/2009 nên lạm phát
có thể tăng cao trong thời gian tới. Vừa qua NHNN
thực hiện các biện pháp để kiểm soát tăng trưởng tín
dụng.
NHNN đã sử dụng một biện pháp khá hiệu quả là hạn
chế cung tiền thông qua chiết khấu giấy tờ có giá.
Ngoài ra, NHNN cũng đã nâng lãi suất chiết khấu và lãi
suất tái cấp vốn lên 1%, tăng lên mức 7% và 6% từ
ngày 1/12/2009. Lãi suất cơ bản cũng tăng từ mức 7%
lên 8%. Đồng thời, NHNN áp dụng trần lãi suất huy
động, trần tăng trưởng tín dụng và hạn chế tín dụng đối
với một số lĩnh vực. Dù không quyết liệt bằng, nhưng
các chính sách này phần nào tương tự như các chính
sách kiềm chế lạm phát năm 2008.
Hiện nay, xuất hiện tình trạng căng thẳng thanh khoản
trong hệ thống ngân hàng. Lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng đã lên tới hơn 12%. Trong khi đó, nhu cầu
tín dụng vào cuối năm thường tăng cao. NHNN đang
đứng trước những lựa chọn khó khăn, một mặt kiềm
chế tăng trưởng tín dụng để phòng ngừa nguy cơ lạm
phát, mặt khác phải tăng cung tiền để đảm bảo thanh
khoản trong hệ thống ngân hàng, cung cấp tín dụng để
thúc đẩy tăng trường kinh tế. Vậy, NHNN sẽ thực hiện
chính sách tiền tệ nào trong thời gian tới?
Có một số ý kiến cho rằng sang năm 2010 với mục tiêu
tăng trưởng tín dụng mới, NHNN sẽ mở van tín dụng
để luồng vốn lưu thông bình thường. Các doanh nghiệp
và ngân hàng lại được tiếp cận tín dụng một cách dễ
dàng hơn, thị trường chứng khoán sẽ bùng nỗ. Đây là
một nhận định không phải là không có lý, tuy nhiên
chúng tôi cho rằng đây không phải là một lựa chọn tốt
nhất đối với NHNN.
Như những lập luận ở trên ở trên, ta thấy lạm phát
thường có độ trễ 5-6 tháng so với tăng trưởng tín dụng
nền cần có biện pháp phòng ngừa sớm. Với mục tiêu
ổn định kinh tế vĩ mô, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng
tín dụng cho năm 2010 dưới 30%, vì vậy nhiều khả
năng NHNN tăng cung tiền vào Q1/2009 nhưng một
cách có kiểm soát.
Ngoài ra, chúng tôi cho rằng để giải quyết tình trạng
hiện nay giải pháp hợp lý của NHNN là tăng thêm cung
tiền nhưng đồng thời nới rộng thêm trần lãi suất huy
động và cho vay để đưa cung cầu tín dụng trên thị
trường về mức cân bằng hơn. Biện pháp này sẽ giải
quyết vấn đề căng thẳng thanh khoản. Cơ chế thị
trường sẽ đưa dòng tiền về những nơi tạo ra giá trị
nhất mà không gây ra lạm phát cao. Ngoài ra, trong
thời kỳ kinh tế gặp khó khăn tăng tín dụng thường thấp
hơn khá nhiều so với tăng trưởng cung tiền M2 nên
vẫn chưa thể gây nên lạm phát ngay. Về lâu dài chỉ có
giải quyết vấn đề mất cân đối trong nền kinh tế, tăng
hiệu quả sử dụng vốn mới có thể duy trì được sự phát
triển ổn định lâu dài cho nền kinh tế.