Dự báo xu hướng phân bố lao động ở khu vực nông thôn tỉnh An Giang giai đoạn 2019 - 2025

This paper utilizes equation of labour forecast in economic sectors by using OLS method to estimate quantity of employed labour by gender, age, sector, occupation, technical skills, possession, job status. By this way, it is able to find labour trend, labour distribution in rural areas of An Giang province, in the period of 2019-2025. The forecast result will provide more evidence for the province in making policy of labour development, labour allocation and distribution that is appropriate to local area as well as socio-economic development policy in rural areas in the forthcoming time.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 42 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dự báo xu hướng phân bố lao động ở khu vực nông thôn tỉnh An Giang giai đoạn 2019 - 2025, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 8 – 17 8 DỰ BÁO XU HƯỚNG PHÂN BỐ LAO ĐỘNG Ở KHU VỰC NÔNG THÔN TỈNH AN GIANG GIAI ĐOẠN 2019 - 2025 Trần Thị Kim Liên1, Hoàng Thu Hằng2 1Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM 2Viện Khoa học Lao động và Xã hội Thông tin chung: Ngày nhận bài: 25/09/2019 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 22/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 02/2020 Title: The estimate labour trend, labour distribution in rural areas of An Giang province in the period of 2019-2025 Keywords: Predict, labour distribution, labour allocation, rural area Từ khóa: Dự báo, phân bố lao động, phân công lao động, khu vực nông thôn ABSTRACT This paper utilizes equation of labour forecast in economic sectors by using OLS method to estimate quantity of employed labour by gender, age, sector, occupation, technical skills, possession, job status. By this way, it is able to find labour trend, labour distribution in rural areas of An Giang province, in the period of 2019-2025. The forecast result will provide more evidence for the province in making policy of labour development, labour allocation and distribution that is appropriate to local area as well as socio-economic development policy in rural areas in the forthcoming time. TÓM TẮT Bài viết sử dụng các phương trình dự báo việc làm trong các ngành kinh tế theo phương pháp hồi quy OLS để dự báo số lượng lao động có việc làm theo giới tính, nhóm tuổi, ngành, nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật, hình thức sở hữu, vị thế công việc; từ đó tìm ra xu hướng việc làm và phân bố lao động ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2019-2025. Kết quả dự báo sẽ là cơ sở cho Tỉnh đưa ra những chính sách phát triển nguồn lao động và phân bố lao động phù hợp với cộng đồng dân cư cũng như chính sách phát triển kinh tế-xã hội khu vực nông thôn trong thời gian tới. 1. GIỚI THIỆU Những năm gần đây, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang xác định phát triển nguồn nhân lực phải gắn với quá trình đổi mới chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Lấy năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động làm căn cứ đánh giá kết quả, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Trong đó, đã xác định: Phát triển theo hướng không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và xây dựng nền kinh tế xanh để tạo nền tảng phát triển thương mại - dịch vụ, công nghiệp chế biến và xây dựng. (Đảng bộ tỉnh An Giang, 2016). Do đó, mục tiêu xây dựng nguồn lực muốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; để tạo thành động lực tổng hợp thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, nhất là khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay thì việc phân bố nguồn lao động hợp lý phải phối hợp hài hoà nhiều biện pháp phân bổ theo từng lĩnh vực sản xuất, từng ngành trong nội bộ từng ngành kinh tế, từng khu vực AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 8 – 17 9 địa lý của tỉnh nhằm thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa thành công trong giai đoạn mới. Để thực hiện hiệu quả vấn đề này, phân tích và dự báo xu hướng phân bố lao động là một nhiệm vụ thiết yếu của công tác hoạch định phát triển kinh tế hiện nay và là cơ sở khoa học cho việc định hướng xây dựng chiến lược, kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội, kết nối cung - cầu lao động nhằm giảm tỉ lệ mất cân đối nguồn nhân lực ở tỉnh An Giang nói riêng và các địa phương khác ngoài tỉnh nói chung. Đề cập đến dự báo nhân lực và nhu cầu nhân lực nói chung và dự báo xu hướng phân công lao động tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu như Đỗ Văn Chấn và cs. (1996); Nguyễn Đông Hanh (1984); Trần Thị Phương Nam, Mai Thị Thu (2013). Nhìn chung, các nghiên cứu đã cung cấp bức tranh khái quát về các mô hình dự báo nhân lực theo kinh nghiệm quốc tế, làm rõ một số vấn đề lý thuyết về các phương pháp dự báo trong điều kiện nền kinh tế thị trường, dự báo cơ cấu đội ngũ cán bộ chuyên môn theo các ngành kinh tế quốc dân, trình bày những cơ sở lí luận dự báo nhu cầu nhân lực được đào tạo; giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu do thực tiễn đặt ra, góp phần quan trọng vào việc hoạch định chiến lược và lập kế hoạch phát triển đào tạo nhân lực ở Việt Nam. Về các lý thuyết dự báo còn kể đến các nghiên cứu của các tác giả Michael R.Carrell, Norbert F.Elbert và Robert D. Hatfield đã trình bày một cách cụ thể mang tính lý thuyết trong xây dựng chiến lược quản lý nhân lực, tác giả Francis X. Diebold với những bước cơ bản để thực hiện thành công một dự báo, những nguyên tắc để thực hiện thành công dự báo, các mô hình dự báo cơ bản: Mô hình trung bình chuyển động, dự báo theo các chu kỳ, mô hình dự báo tổng hợp, mô hình hồi quy. Một mô hình dự báo mang tính vĩ mô là mô hình cơ sở BLS do Cục Thống kê lao động của Mỹ (US. Bureau of Labor Statistics) thực hiện. Mô hình này thể hiện các bước thực hiện như: Lực lượng lao động, tăng trưởng kinh tế chung, nhu cầu sản phẩm trong nước (GDP) chia theo ngành, đầu ra-đầu vào, nhân lực theo ngành, nhân lực theo nghề. Kết quả dự báo mô hình này cho phép thể hiện chi tiết cho các ngành và nghề nghiệp. Tương tự, Mô hình IER (The Institute of Employment Rights - UK) do Viện về Quyền của Người lao động của Anh thực hiện cho phép phân tích chi tiết hơn, đó là những nhu cầu theo nghề, đào tạo theo vùng miền và giới tính. Liên quan đến nghiên cứu xu hướng lao động việc làm ở nông thôn, Jonna Estudillo và cs. (2013) trong Labor markets, occupational choice, and rural poverty in four Asian countries đã có những phát hiện về cơ chế thị trường lao động khu vực nông thôn của Philippines, Việt Nam, Bangladesh và Sri Lanka; từ đó đề xuất các chính sách cải thiện việc làm và mức sống của người lao động nông thôn. Ngoài ra, một nghiên cứu của Jennifer Cheung trong bài viết China’s Inland Growth Gives Rural Laborers More Opportunities Near Home đã khẳng định việc lao động di cư của Trung Quốc có xu hướng tính đến cơ hội việc làm gần nhà hơn khi khu vực kinh tế nội địa phát triển. Đặc biệt, Jasmmin Thomas (2015), đã dự báo việc làm, nghề nghiệp với các kỹ năng, đào tạo và giáo dục cần thiết để đáp ứng nhu cầu lao động trong tương lai. Nghiên cứu này sử dụng bộ số liệu khảo sát cung - cầu thị trường lao động bằng nhiều phương pháp, trong đó có cả phương pháp dự báo bình phương nhỏ nhất (OLS) và mô hình hồi quy Multilogic để dự báo việc làm, phân bố việc làm theo trình độ, nghề nghiệp. Nghiên cứu cũng thảo luận về các phương pháp có thể thực hiện để ước tính cung và cầu lao động nghề nghiệp trong tương lai mà người lao động nông thôn phải đối mặt. Đây là cơ sở để nhóm nghiên cứu vận dụng và phát triển phương pháp hồi quy OLS phù hợp trong dự báo số lượng lao động có việc làm ở khu vực nông thôn An Giang – phương pháp này phù hợp với dạng số liệu trong quá khứ dùng để dự báo (số liệu dạng chuỗi, dạng chéo). AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 8 – 17 10 2. PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO VÀ SỐ LIỆU 2.1 Phương pháp dự báo Phương pháp dự báo việc làm trong toàn nền kinh tế và trong các ngành kinh tế Chi tiết của phương pháp luận dự báo việc làm trong toàn nền kinh tế được chỉ ra bởi phương trình (1) dưới đây, đó là hồi quy ln(LD) theo các biến độc lập ln(GDP), t, t2 và t3 cũng như các biến trễ của ln(LD), ln(GDP) (Đỗ Văn Thành, 2015B). Hồi quy: (1) Trong đó: LD: Số lao động đang tham gia hoạt động kinh tế trong toàn tỉnh : Tổng sản phẩm quốc nội được tính theo giá so sánh. : Biến LD trễ bậc 1 = năm – 2010 (vì số liệu thống kê có được bắt đầu từ năm 2010) a1, a2, a3, a4 và a5 là các hệ số ước lượng; c là sai số ngẫu nhiên Biến phụ thuộc: ; Biến giải thích: Bằng sử dụng kỹ thuật hồi quy theo phương pháp bình phương nhỏ nhất trên tập dữ liệu thống kê liên quan đến các biến LD, GDP và t, ta sẽ xác định được các hệ số của phương trình (1) và sau đó: Số lao động tham gia hoạt động kinh tế: LD =eln(LD). Phương trình mà các hệ số được ước lượng dựa trên tập số liệu thống kê thực tế như phương trình (1) ở trên được gọi là phương trình hành vi. Ngược lại thì được gọi là đồng nhất thức. Trong phương trình (1), yêu cầu hệ số a2>0 và nó ngầm ý rằng việc làm phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế. Khi GDP tăng lên thì việc làm mới cũng được tạo thêm mới và ngược lại khi GDP giảm thì một số việc làm sẽ mất đi. Hơn nữa nếu trong phương trình (1) không có các thành phần liên quan đến biến t thì a2 được gọi là hệ số co dãn giữa việc làm và GDP. Nó cho biết khi GDP tăng lên hoặc giảm đi 1% thì số việc làm cũng tăng lên hoặc giảm đi a2%. Tuy nhiên, do Việt Nam là nước đang phát triển, quá trình phát triển kinh tế gắn liền với quá trình áp dụng khoa học công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến nên hệ số co giãn giữa việc làm và GDP là không ổn định và có thể xảy ra tình trạng có những năm GDP tăng lên nhưng không tạo ra việc làm mới, thậm chí còn làm mất đi một số việc làm, An Giang là địa phương cũng ở hiện trạng tương tự. Để nắm bắt được hiện tượng này, thành phần được đưa vào để phản ánh cho sự áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến như vậy và nó được thay đổi theo thời gian. có thể có nhiều dạng khác nhau, nhưng nói chung ở dạng đa thức bậc 3 là đủ để dự báo được chính xác. Việc dự báo số lao động đang tham gia hoạt động kinh tế trong một ngành kinh tế nào đó được xác định tương tự như phương trình (1), ở đó LD tương ứng là số lao động đang tham gia hoạt động trong một ngành kinh tế nào đó và GDP là tổng sản phẩm quốc nội của ngành kinh tế đó được tính theo giá so sánh. Phương pháp dự báo việc làm phân theo trình độ đào tạo Phương pháp được xác định như sau: Hồi quy: 2 3 1 2 3 4ln( ) ln( ( 1)) * * * (2)ODDS a ODDS a t a t a t c= + − + + + + 2 3 1 2 3 4 5ln( ) *ln( (-1) *ln( ) * * *LD a LD a GDP a t a t a t c= + + + + + GDP ( 1)LD − t LD , ( 1),GDP LD t− 2 3 3 4 5( )f t a t a t a t c=  +  +  + ( )f t AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 8 – 17 11 với ODDS là tỷ lệ của việc làm ở một mức trình độ nào đó chia cho tổng việc làm toàn khu vực nông thôn trong tỉnh, được gọi là tỷ số odds. a1, a2, a3 và a4 là các hệ số ước lượng; c là sai số ngẫu nhiên. Từ kết quả hồi quy, chúng ta sẽ nhận được tỷ số odds ở một mức trình độ đào tạo và việc làm ở mức trình độ đào tạo đó sẽ được tính bằng cách nhân tỷ số odds với việc làm toàn nền kinh tế. Phương pháp này được gọi là Multilogit. Phương pháp dự báo việc làm theo trình độ đào tạo trong ngành kinh tế Để dự báo việc làm phân theo trình độ đào tạo phân theo các ngành kinh tế ta có thể sử dụng phương pháp Multilogit như được trình bày ở trên. Tuy nhiên với nhận xét rằng với mỗi trình độ đào tạo ta phải ước lượng 4 phương trình hành vi cho 4 mức trình độ và mức trình độ đào tạo còn lại ta có thể tính toán bằng đồng nhất thức. Như vậy để dự báo việc làm phân theo 5 trình độ đào tạo trong 3 ngành ta cần phải ước lượng: 3 x 4 = 12 phương trình hành vi và 3 đồng nhất thức. Có thể thấy về mặt lý thuyết dạng phương trình dự báo việc làm cũng như việc làm phân theo trình độ đào tạo (hay ngành đào tạo cấp 1) trong các ngành kinh tế là đơn giản nên có thể nghĩ rằng việc xác định được phương trình hành vi (hay phương trình ước lượng) bằng phép hồi quy cho phép dự báo được là không khó khăn, phức tạp. Để phương trình ước lượng đạt được yêu cầu trên người ta phải sử dụng một số kỹ thuật khác trong đó; nhất là coi phần dư của phương trình ước lượng như là mô hình trung bình trượt tự hồi quy ARMA. 2.2 Nguồn số liệu sử dụng để dự báo và các chỉ số dự báo Để phản ánh được tình trạng nguồn nhân lực trên địa bàn toàn tỉnh, trong bài viết này, nhóm tác giả sử dụng số liệu từ Điều tra cung-cầu lao động hàng năm của tỉnh giai đoạn 2010-2017; từ đó dự báo 1 số chỉ tiêu liên quan đến phân công, phân bố lao động có việc làm ở khu vực nông thôn tỉnh An Giang. Các chỉ số dự báo về phân công, phân bố lao động có việc làm gồm: - Các chỉ số về việc làm: Tổng việc làm, việc làm theo giới tính, nhóm tuổi, nghề nghiệp, vị thế việc làm. - Chỉ số về quy mô việc làm theo trình độ chuyên môn kỹ thuật. 2.3 Mô tả các bước dự báo sử dụng số liệu Điều tra cung-cầu lao động tỉnh An Giang giai đoạn 2010-2017 Ước lượng gộp các phương trình dự báo việc làm và trong các ngành kinh tế theo công thức (1) ở trên bằng phương pháp hồi quy OLS. Các yêu cầu kiểm định về tính ổn định của phương trình ước lượng, phần dư có phân phối chuẩn và kỳ vọng bằng 0; phần dư không tự tương quan chuỗi và phần dư không có hiện tượng phương sai thay đổi đều được thỏa mãn. Trong các phương trình này đã đưa thêm một số biến giả để khắc phục sự biến đổi bất thường của dữ liệu. Phương trình dự báo cầu lao động khu vực nông thôn tỉnh Ln(LD) = 0.864 * Ln(LD(-1)) + 0.23 * Ln(GDP) - 0.01 * t - 0.01 * t2 (3) (0.067) 0.084) (0.004) (0.004) Để dự báo lao động khu vực nông thôn tỉnh An Giang, thay giá trị vào phương trình (3). Dự báo việc làm năm 2019 như sau: Ln(LD2019)=0.864 * Ln(LD2018) + 0.23 * Ln(2019) - 0.01 * t - 0.01 * t2 Thay số vào phương trình: Ln(LD2019) = 0.864 * Ln(867791) + 0.23 * Ln(77723) - 0.01*8 - 0.01 * 82 = 13.69 AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 8 – 17 12 => LD2019 = e^13,69 = 882,678 (lao động) Dự báo các năm khác tương tự, kết quả được cho trong bảng 1. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 Dự báo xu hướng phân công, phân bố lao động có việc làm theo giới tính và nhóm tuổi giai đoạn 2019-2025 Theo kết quả dự báo ở bảng 1, tổng số việc làm ở khu vực nông thôn của tỉnh sẽ có xu hướng tăng trong giai đoạn 2019 - 2025, bình quân mỗi năm tăng khoảng 13 nghìn việc làm. Nguyên nhân có thể là do tác động của các chính sách định hướng phát triển nông nghiệp trong thời gian tới của tỉnh. Về việc làm theo giới tính Theo giới tính, việc làm của nam giới tăng từ 518,4 nghìn người năm 2019 lên 561,1 nghìn người năm 2025, nữ giới tăng từ 364,3 nghìn người lên 413,2 nghìn người. Việc làm theo nhóm tuổi Theo nhóm tuổi, tất cả lao động trong độ tuổi trẻ và trung niên từ 15 đến 24 tuổi có xu hướng giảm việc làm ở khu vực nông thôn, tuy nhiên nhóm trung niên và tuổi già có xu hướng tăng việc làm (nhóm tuổi 45-49 tăng từ 105,679 người năm 2019 lên 121,603 người năm 2025; con số tương tự với nhóm tuổi 50 - 54 là 89,222 người và 125,438 người). Đây là một thách thức khó khăn trong việc đảm bảo việc làm an ninh, linh hoạt cho người cao tuổi trên địa bàn khu vực nông thôn của tỉnh An Giang. Bảng 1. Dự báo việc làm theo giới tính và nhóm tuổi (Đơn vị: Người) 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 Tổng số 882,678 897,951 913,224 928,497 943,771 959,044 974,317 Giới tính Nam 518,402 525,669 532,876 540,023 547,110 554,136 561,102 Nữ 364,276 372,282 380,348 388,474 396,661 404,908 413,215 Lao động có việc làm theo nhóm tuổi 15-19 518,402 525,669 532,876 540,023 547,110 554,136 561,102 20-24 364,276 372,282 380,348 388,474 396,661 404,908 413,215 25-29 518,402 525,669 532,876 540,023 547,110 554,136 561,102 30-34 364,276 372,282 380,348 388,474 396,661 404,908 413,215 35-39 518,402 525,669 532,876 540,023 547,110 554,136 561,102 40-44 364,276 372,282 380,348 388,474 396,661 404,908 413,215 45-49 518,402 525,669 532,876 540,023 547,110 554,136 561,102 50-54 364,276 372,282 380,348 388,474 396,661 404,908 413,215 55-59 518,402 525,669 532,876 540,023 547,110 554,136 561,102 60+ 364,276 372,282 380,348 388,474 396,661 404,908 413,215 Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả trên cơ sở dữ liệu Điều tra cung-cầu lao động hàng năm tỉnh An Giang AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 8 – 17 13 3.2 Phân công, phân bố lao động theo ngành, nghề, vị thế việc làm, khu vực sở hữu giai đoạn 2019-2025 Việc làm theo 3 nhóm ngành Theo kết quả dự báo, đến năm 2025 việc làm ở khu vực nông thôn của tỉnh trong nhóm ngành nông lâm và thủy sản tiếp tục giảm cả về số lượng và cơ cấu, cụ thể giảm từ 373,8 nghìn người vào năm 2019 xuống còn 345,0 nghìn người vào 2025; việc làm trong ngành công nghiệp – xây dưng có xu hướng tăng từ 195,7 nghìn người năm 2019 lên 302,8 nghìn người và việc làm trong ngành dịch vụ có xu hướng tăng nhẹ từ 313,1 nghìn người năm 2019 lên 326,4 nghìn người năm 2025.Với định hướng phát triển nông nghiệp là một trong những ngành chủ lực của tỉnh trong giai đoạn 2016-2020, với xu hướng này, tỉnh cần đẩy mạnh hơn nữa những chính sách phát triển nông nghiệp ở những mặt hàng có lợi thế, tăng hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao để chế biến sâu các sản phẩm chủ lực của tỉnh nhằm thu hút các nhà đầu tư, khai thác nhiều thị trường mới để tạo ra nhiều việc làm mới có chất lượng cho người lao động trong thời gian tới. Bảng 2. Dự báo việc làm theo 3 nhóm ngành (Đơn vị: Người) 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 Nông, lâm nghiệp và thủy sản 373,846 370,241 366,149 361,574 356,528 351,020 345,067 Công nghiệp và xây dựng 195,705 211,245 227,695 245,068 263,375 282,623 302,811 Dịch vụ 313,127 316,464 319,381 321,855 323,868 325,401 326,439 Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả trên cơ sở dữ liệu Điều tra cung-cầu lao động hàng năm tỉnh An Giang Việc làm theo nghề Đến năm 2025 ở khu vực nông thôn của tỉnh, lao động ở vị trí giản đơn có xu hướng giảm cả số lượng và tỷ trọng, từ 198,7 nghìn người vào năm 2019 xuống còn 191,5 nghìn người vào năm 2025; lao động ở nghề “các nhà quản lý trong các ngành, các cấp” sẽ là 3,977 nghìn người vào năm 2025; lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc cao cũng tăng từ 29,9 nghìn người năm 2019 lên 42,9 nghìn người vào 2025, tuy nhiên lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc trung lại giảm một nửa từ 8,9 nghìn người năm 2019 xuống còn 5,2 nghìn người năm 2025. Bảng 3. Dự báo việc làm theo nghề (Đơn vị: Người) 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 Các nhà lãnh đạo 4,167 4,145 4,119 4,089 4,056 4,018 3,977 Chuyên môn kỹ thuật bậc cao 29,921 31,854 33,878 35,994 38,202 40,504 42,901 Chuyên môn kỹ thuật bậc trung 8,964 8,219 7,527 6,887 6,295 5,747 5,242 Nhân viên (chuyên môn sơ cấp, kỹ thuật làm việc tại văn phòng, bàn giấy) 11,537 11,813 12,083 12,346 12,603 12,851 13,091 AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 8 – 17 14 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 Nhân viên dịch vụ cá nhân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và bán hàng có kỹ thuật 169,773 169,401 168,855 168,139 167,253 166,201 164,987 Lao động có kỹ thuật trong nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 280,432 284,274 287,872 291,215 294,295 297,102 299,629 Thợ thủ công có kỹ thuật và các thợ kỹ thuật khác có liên quan 122,479 130,493 138,889 147,672 156,850 166,428 176,410 Thợ có kỹ thuật lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị 55,777 58,760 61,840 65,013 68,280 71,636 75,081 Lao động giản đơn 198,772 198,046 197,119 195,995 194,677 193,170 191,479 Lực lượng vũ trang 856 945 1,041 1,146 1,260 1,385 1,520 Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả trên cơ sở dữ liệu Điều tra cung-cầu lao động hàng năm tỉnh An Giang Theo vị thế công việc, lao động làm chủ cơ sở hoặc tự làm, lao động gia đình có xu hướng giảm trong giai đoạn 2019-2025 và tăng nhẹ số lượng lao động làm công hưởng lương. Dự báo đến năm 2025, số lao động làm chủ cơ sở ở khu vực nông thôn của tỉnh là 9,0 nghìn người giảm một nửa so với năm 2019; con số tương tự với lao động tự làm, lao động gia đình là 557,0 nghìn người, tăng nhẹ so với 2019 (523,5 nghìn người) và lao động làm công hưởng lương là 408,3 nghìn người, tăng so với 2019 (340