TÓM TẮT
Emily Dickinson (1830 – 1886) được xem là hiện tượng thơ độc đáo của Hoa Kỳ ở thế kỉ XIX,
nhưng sự phát hiện này khá muộn màng. Với 1775 bài thơ mà chỉ có sáu bài được xuất bản lúc
sinh thời, thiên tài thi ca Emily Dickinson là nguồn thơ mênh mông trên thi đàn Hoa Kỳ.
Bằng chất thơ dung dị, giàu hình tượng, trí tuệ và dí dỏm, v.v. Emily Dickinson được nhiều nhà
nghiên cứu cho là hiện đại và cách tân hơn cả Walt Whitman. Bà là người đầu tiên sử dụng lối
thơ hai câu liền vần (para–rhyme). Thiên về khai thác cái chìm khuất, mặt tối của tâm hồn, cái
chết, nấm mồ, vật chất và phi vật chất, v.v. Emily Dickinson đã cho thấy thế mạnh trong bản sắc
thơ mình. Nét phong cách đó đã khiến bà gần gũi hơn với độc giả thế kỉ XX
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Emily Dickinson – Linh hồn thơ bất tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
EMILY DICKINSON – LINH HỒN THƠ BẤT TỬ
LÊ HUY BẮC(*)
TÓM TẮT
Emily Dickinson (1830 – 1886) được xem là hiện tượng thơ độc đáo của Hoa Kỳ ở thế kỉ XIX,
nhưng sự phát hiện này khá muộn màng. Với 1775 bài thơ mà chỉ có sáu bài được xuất bản lúc
sinh thời, thiên tài thi ca Emily Dickinson là nguồn thơ mênh mông trên thi đàn Hoa Kỳ.
Bằng chất thơ dung dị, giàu hình tượng, trí tuệ và dí dỏm, v.v. Emily Dickinson được nhiều nhà
nghiên cứu cho là hiện đại và cách tân hơn cả Walt Whitman. Bà là người đầu tiên sử dụng lối
thơ hai câu liền vần (para–rhyme). Thiên về khai thác cái chìm khuất, mặt tối của tâm hồn, cái
chết, nấm mồ, vật chất và phi vật chất, v.v. Emily Dickinson đã cho thấy thế mạnh trong bản sắc
thơ mình. Nét phong cách đó đã khiến bà gần gũi hơn với độc giả thế kỉ XX.
ABSTRACT
Emily Dickinson (1830 – 1886) is a typical poet in the U.S.A. in the 19th century, but this
discovery was so late. She wrote 1775 poems, but only six of them were published in her lifetime.
She is considered as one of the most famous poets in the world.
Her voice is full of intellect, humour, and simplicity. Many critics confirmed that Emily
Dickinson’s poems were more innovative than Walt Whitman’s. She is the first one using the
para–rhyme poem. Her poems cultivate the dark side of soul, the death, the grave... Her style is
familiar with the moderm readers in the 20
th
century.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Emily Dickinson (1830 – 1886) được xem là hiện tượng thơ độc đáo của Hoa Kỳ ở thế kỉ XIX,
nhưng sự phát hiện này khá muộn màng. Với 1775 bài thơ mà chỉ có sáu bài được xuất bản lúc
sinh thời, thiên tài thi ca Emily Dickinson là nguồn thơ mênh mông trên thi đàn Hoa Kỳ. R. P.
Blackmur, một phê bình gia thế kỉ XX, nhận xét rằng đôi lúc đọc thơ Dickinson ông có cảm giác
như thể “một chú mèo đến bên ta và nói tiếng Anh”.
Bằng chất thơ dung dị, giàu hình tượng, trí tuệ và dí dỏm, Emily Dickinson được nhiều nhà
nghiên cứu cho là hiện đại và cách tân hơn cả Walt Whitman. Bà là người đầu tiên sử dụng lối
thơ hai câu liền vần (para–rhyme). Thiên về khai thác cái chìm khuất, mặt tối của tâm hồn, cái
chết, nấm mồ, vật chất và phi vật chất, v.v. Emily Dickinson đã cho thấy thế mạnh trong bản sắc
thơ mình. Nét phong cách đó đã khiến bà gần gũi hơn với độc giả thế kỉ XX, đặc biệt là vào
những năm 1950 khi ở Hoa Kỳ dấy lên phong trào tái phát hiện Dickinson và khi Thomas H.
Johnson cho xuất bản tổng tập Thơ Emily Dickinson (The Poems of Emily Dickinson, 1955) gồm
ba tập, thì thơ bà lại càng nổi tiếng và ăn sâu vào tâm hồn của người dân Hoa Kỳ.
2. NỘI DUNG
Emily Dickinson sinh tại Amherst bang Massachusetts, vào ngày 10-12-1830. Mẹ Emily
Dickinson là bà Emily Norcross Dickinson. Một số tài liệu gần đây cho biết bà là người có học
vấn khá cao. Nhưng tình cảm giữa mẹ và con gái không được gắn bó thắm thiết. Dickinson luôn
cảm thấy xa lạ với mẹ. Nhưng cả hai mẹ con Dickinson có cùng tố chất là khả năng cô độc trước
(*)
PGS.TS, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
cuộc sống con người. Bố Emily Dickinson ông Edward Dickinson tốt nghiệp tại Đại học Yale
danh tiếng, là luật sư kiêm nghị sĩ của bang, một nhà hoạt động chính trị và xã hội không biết
mệt mỏi cho đến lúc qua đời. Dickinson thừa hưởng được cả hai lối sóng trái ngược này từ cả
cha và mẹ.
Emily thu được nhiều thành quả đáng khích lệ trong học tập. Thời gian sau, năm 1847 bà trở
thành sinh viên xuất sắc bậc nhất của trường. Năm 17 tuổi, Dickinson chuyển đến South Hadley,
Massachusetts học tại trường dòng Mount Holyoke dành cho nữ sinh. Dickinson chỉ theo học
chưa đến một năm rồi trở lại nhà. Nguyên nhân được đưa ra là vì bà nhớ nhà và sức khỏe không
tốt. Tuy nhiên, có lẽ đây mới là lí do thực: Dickinson đã không kí vào bản tuyên thệ chung tuyên
bố lòng trung thành dành cho Chúa. Trở về ngôi nhà thân quen, Dickinson bắt tay sáng tác
những vần thơ đầu tiên.
Năm 1862, tờ tạp chí danh tiếng Atlantic Monthly đề nghị in thơ Dickinson. Tác giả đồng ý và
gửi mấy bài đến biên tập viên Thomas Wentworth Higginson. Higginson đề nghị sửa chữa chút
ít những bài thơ đó, Dickinson không chấp nhận. Tuy có bất đồng về chuyện thơ ca, nhưng quan
hệ hai người từ đó trở nên thân thiết. Có lẽ họ đã có khoảng thời gian yêu nhau.
Những ngày tháng êm đềm trôi mau, bất hạnh ngả dài bóng lên cuộc sống gia đình Dickinson.
Thị lực bà ngày càng kém. Bác sĩ cấm bà không được đọc hay viết lách gì. Đấy quả là cú sốc
lớn. Năm 1874, bố bà đột tử. Kể từ đây, Dickinson hạn chế giao du với bên ngoài, ngoài một số
phóng viên báo chí và bạn bè thân. Dickinson có vẻ hài lòng với cuộc sống cô độc. Bà quẩn
quanh trong ngôi nhà và khu vườn, nơi thỉnh thoảng bọn trẻ đến chơi đùa ầm ĩ. Những năm tiếp
theo, các bạn bè thân thiết của bà lần lượt qua đời. Bản thân Dickinson bị bệnh thận đe dọa.
Dickinson qua đời vào ngày 15 tháng 5 năm 1886, ở vào tuổi năm sáu. Thi hài bà được mai táng
tại nghĩa trang ở Amherst, Massachusetts. Bà không muốn được làm lễ ở nhà thờ. Đám tang
được cử hành thẳng từ nhà bà ra nghĩa địa. Bà được liệm bằng bộ đồ trắng ưa thích vào những
năm cuối đời, trước khi đặt vào quan tài.
Mặc dù được người thân và bạn bè khuyến khích xuất bản thơ, nhưng suốt đời mình, Dickinson
chỉ cho in sáu bài. Sau khi bà qua đời, cô em Lavinia tìm thấy hàng trăm bài thơ được đóng
thành tập bởi chính tay Dickinson trong phòng bà. Rất ít bài có nhan đề, phần nhiều là chưa được
hoàn thành. Với sự giúp đỡ của Higginson và Mabel Loomis Todd, Lavinia sắp xếp các bài thơ
đó thành từng tập theo năm. Hai tập thơ đầu tiên được in sau khi Dickinson mất là: Thơ (Poems,
1890) và Thơ: Tuyển hai (Poems: Second Series, 1891).
Nhận định về ma lực của thơ, Emily Dickinson nói, “Nếu tôi đọc một cuốn sách và nó làm cho
cơ thể tôi lạnh đến mức không một ngọn lửa nào có thể sưởi ấm được, thì tôi biết đấy là thơ. Nếu
tôi cảm nhận cơ thể mình như thể đỉnh đầu bị phạt bay mất thì tôi biết đấy là thơ”.
Với quan niệm mang tính cách mạng chống lại những hủ tục tôn giáo đang đè nặng lên lương tri
thời đại, Dickinson đưa ra khẩu hiệu: “Linh hồn chọn xã hội riêng của nó”. Bà muốn bản thân và
mọi người được sống cuộc sống đắm say nơi trần thế với tất cả mọi đóng góp lẫn những lỗi lầm
có thể chấp nhận. Chúa khuyên con người hành xác nhằm giữ sự tinh khiết của bản thân để dễ
dàng lên thiên đường, trong khi đó Dickinson thì kêu gọi giải phóng tính dục để con người được
sống một cuộc sống bình thường với những thú vui trần thế. Bài thơ số 249 được mở đầu bằng
điệp khúc Đêm cuồng say! – Đêm cuồng say! (Wild Nights! – Wild Nights!)[1]:
Đêm cuồng say! – Đêm cuồng say!
Ta với ngươi
Đêm cuồng say
Ta ngất ngây!
Phù du – cơn gió –
Trái tim trong bến cảng
Quay với la bàn
Quay với hải đồ
Chèo trong thiên đường
A, biển
Ta buông neo – đêm nay
Trong ngươi!
Bài thơ được xem là biểu tượng tính dục của con người, của “cái tôi” Dickinson. “Đêm cuồng
say” ẩn dụ cho nỗi khao khát tình dục. “Đêm cuồng say” và “ta” cùng say đắm, ngất ngây nhau.
“Cơn gió” ẩn dụ cho khát vọng tự do, buông thả cảm xúc, xác thịt. Nhưng “cảng”, “ la bàn”, “hải
đồ” là những hình ảnh biểu tượng cho đạo lí, cho “lực cản” của khao khát bản năng. Khổ cuối
diễn tả sự thỏa mãn tình dục. “Biển” là nước. Bơi “trong thiên đường” là bơi trong ngất ngây
hạnh phúc.
Với dung mạo đoan trang, Dickinson được xem là “hoa khôi của xứ Amherst”. Bà là nhà thơ
“vượt thời” của nền thơ ca Hoa Kỳ. Sinh thời không phải Dickinson cực đoan đến mức chỉ sáng
tác thơ cho riêng mình mà ắt hẳn chỉ vì bà e sợ thái độ của độc giả đương thời đối với thơ mình.
Thơ Dickinson chan chứa ân tình và khao khát một cuộc sống mãnh liệt. Đa số thơ của
Dickinson không có nhan đề, dựa vào ngày tháng sáng tác mà các nhà tuyển chọn đánh số hay
lấy câu đầu tiên dùng làm nhan đề. Chỉ cần đọc lướt qua các “nhan đề” này, chúng ta sẽ thấy
được niềm khao khát sống đó: Bởi vì tôi không thể dừng lại đợi cái chết (Because I Could Not
Stop for Death), Tôi Không Ai! Bạn là Ai? (I'm Nobody! Who are You?), và Đêm cuồng say!
Đêm cuồng say! (Wild Nights! Wild Nights!).
Dickinson tuy cùng thời với Whitman và cùng nổi tiếng với những cách tân thơ táo bạo. Nhưng
thiên hướng của họ khác nhau. Nếu thơ của Whitman cuồn cuộn chảy thì thơ của Dickinson rất
kiệm lời. Thơ Whitman thiên về cảm xúc và cảm hứng lãng mạn mạnh mẽ thì thơ Dickinson
thiên về trí tuệ và ẩn dụ. Nếu không quen đọc thơ theo lối ẩn dụ thì không thể nào hiểu được
Dickinson. Hơn nữa, bà thường sử dụng câu thơ ít chữ và hình thức bài thơ ngắn, cũng như cách
diễn đạt rất trúc trắc mơ hồ. Ngay đến cả học sinh bản địa, khi được giáo viên yêu cầu phân tích
thơ Dickinson, bài Đêm cuồng say! Đêm cuồng say! thì không ít ý kiến cho rằng mình chẳng biết
bài thơ nói gì, cực đoan hơn, có em còn cho rằng làm thơ như thế thì thật điên rồ.
Không chỉ sử dụng ẩn dụ, những rắc rối mà thơ Dickinson mang lại cho những độc giả lười
biếng còn ở chỗ, thơ bà giống nhiều với cách nói năng thường nhật của con người. Có điều lối
nói đó thường xuyên được bỏ lửng, bị nhảy cóc khiến người đọc khó lần ra mối dây dẫn dắt. Xét
ở góc độ này, thơ của Dickinson ít nhiều đã vươn đến ranh giới của “tư duy gián đoạn” của thơ
Siêu thực thế kỉ XX.
Dickinson là nhà thơ nhạy cảm. Thơ bà là sự đối thoại quyết liệt trước sự khắt khe của truyền
thống đạo đức gia đình theo thuyết Calvin. Bà khám phá cho riêng mình một thế giới tinh thần,
thường là nhức nhối, mang tính riêng tư và thậm chí là có thể bị xem là tà đạo vì cho ra đời
những vần thơ báng bổ:
Tôi không mất gì nhiều trừ hai lần –
Và một lần nằm yên trong đất
Hai lần tôi là người hành khất
Đứng trước cửa Chúa Trời
Thiên thần – hai lần hạ cánh
Trả lại tài sản cho tôi –
Kẻ cắp! Chủ ngân hàng – Cha cố!
Tôi lại trắng tay một lần!
Cùng nhớ lại cái ngày cha bà phát hiện ra những dấu hiệu bất thường từ con gái. Việc làm đầu
tiên của ông là mời một vị linh mục đến kiểm tra đức tin của con mình. Cuộc kiểm tra đó không
ai biết được nội dung cụ thể, nhưng Dickinson được thông báo là đã vượt qua được một cách
bình yên. Tuy nhiên, chính bà về sau đã đưa ra lời tuyên bố bằng thơ mang tính phỉ báng tôn
giáo: Thiên đường không tìm thấy trên mặt đất thì sẽ chẳng thể nào tìm thấy trên kia.
Xem thế để thấy những mâu thuẫn không dễ gì được giải tỏa trong tâm hồn bà. Rõ ràng bà đã để
tâm hồn hướng đến thế giới tự do và đầy bản năng của con người nhưng cuộc sống của một con
chiên ngoan đạo dẫu chỉ là về mặt hình thức thì bà đâu dám cởi bỏ tuyệt đối. Kiểu mâu thuẫn này
còn được thấy ở hầu hết các hành động, suy nghĩ của Dickinson. Ngay đến cả tình yêu cũng vậy.
Một đằng thi nhân muốn từ bỏ, những mặt khác đâu dễ để từ bỏ (bài thơ số 47), ngay cả khi tình
yêu đó đâu còn mặn nồng:
Nào, con tim! Về người ấy đêm này
Ta và mi hãy cùng quên lãng.
Ta sẽ quên nguồn sáng
Còn mi – nồng ấm, mê say.
Khi quên rồi, mi hãy nói cho ta
Để ta, sẽ bắt đầu tim nhé
Chứ bây giờ mi lần lữa
Thì ta vẫn cứ nhớ về.
(Nguyễn Viết Thắng dịch)
Trạng thái lưỡng lự luôn xuất hiện trong thơ Dickinson. Điều này chứng tỏ ở bà có sự giằng xé
nội tâm mạnh. Nữ sĩ muốn vượt lên tất cả, bất chấp tất cả để sống cuộc sống đúng nghĩa với bản
chất mình, nhưng thực không dễ. Đây cũng chính là lí do đã khiến bà khép kín lòng mình, sống
cuộc đời gần như là ẩn dật trong căn phòng trên tầng hai mà rất hiếm khi xuống đất. Hình ảnh
Dickinson với bộ đồ màu trắng còn in lại rất lâu trong kí ức của nhiều đứa trẻ trong vùng. Bà
thường cho chúng kẹo, được đưa xuống từ tầng hai bằng một sợi dây buộc chiếc giỏ. Sợi dây ấy,
những đứa trẻ ấy cũng là những tiếp xúc hiếm hoi của Dickinson với thế giới bên ngoài.
Chơi với trẻ con, khước từ cuộc sống xã hội để sống trọn vẹn với thế giới tưởng tượng phong
phú của mình, Dickinson muốn khẳng định cái tôi độc lập. Một cái tôi tinh khiết của riêng mình.
ở đây có sự đối lập giữa tôi và xã hội. Xã hội, cộng đồng, đời sống công cộng, quả là điều gì đó
khủng khiếp với Dickinson. Bà ao ước mình được là Không Ai (Nobody) trong bài thơ số 260.
Nhưng cũng như cuộc sống của bà, ao ước đó cũng chỉ là ao ước, bởi một khi được sinh ra con
người muốn hay không cũng đều gắn với một cộng đồng nào đó.
Tôi Không Ai! Bạn là Ai?
Cũng Không Ai nốt đúng không nào?
Vậy ta thành cặp đi bạn nhé
Đừng nói, người đời tách ta ra.
Thật khủng khiếp phải là Ai đó!
Sống đời công cộng như chú ếch
Gào toáng tên mình suốt đêm ngày
Trước vũng bùn lầy đầy ngưỡng mộ!
Bài thơ được viết bằng ngôn ngữ dung dị. Giống nhiều bài thơ khác, nữ sĩ xuất hiện ở ngôi tôi.
Tôi đó xác định mình là Không Ai. Cách xác định này tạo ra một phản đề với thế giới nhân quần
xung quanh là Có Ai (hoặc Ai đó: somebody). Tức là những con người của một cộng đồng, tuân
thủ những nếp sống văn hóa và chấp nhận một lối sống quán tính từ bao đời. Nhân vật tôi ở khổ
thơ này tỏ vẻ mừng vì đã gặp được một người bạn Không Ai giống mình. Và mừng hơn nữa là
hai người có thể kết thành đôi để trở thành Có Ai của một môi trường khác, của một thế giới
khác với những chuẩn mực sống khác. Giọng thơ thể hiện sự sợ sệt vì trong một xã hội đã phong
kín mọi nẻo đường Không Ai thì việc xuất hiện của tôi và bạn đó sẽ không thể nào tồn tại. Người
ta sẽ bắt họ thành Ai đó.
Khổ thơ thứ hai mang âm hưởng khác với khổ thơ đầu. Nhà thơ bày tỏ trực tiếp thái độ của mình
trước việc trở thành Ai đó và giễu cợt cuộc sống bầy đàn. Điều này chứng tỏ, tác giả đã cảm thấy
tự tin hơn. Sự tự tin này có lẽ được bắt nguồn từ chính việc bên cạnh cái Không Ai của tác giả đã
có thêm một cái Không Ai nữa. Thế giới của những Ai đó, được ví như thế giới của ếch nhái. Đấy
là thế giới tầm thường, thiển cận không có gì đáng nói. Thế nhưng, những chú ếch đó lại suốt
ngày ầm ĩ (như bản chất vốn có của loài ếch), khoe khoang bản thân trước cái vũng bùn khốn
khổ mà chúng đang sống. Một thái độ nô lệ, tự huyễn hoặc đáng thương. Khát vọng tự do, tự chủ
toát lên từ đây.
Bài thơ cho thấy nỗi băn khoăn về bản thể và nhu cầu xác định bản thể. Thơ Dickinson xuất phát
từ trái tim cô quanh, từ nỗi sợ hãi thế giới xung quanh, nỗi sợ trước sự mong manh của kiếp
người, lẫn ma quái, quỷ dữ, nhà thờ, cha cố, v.v. Bà là nhà thơ độc đáo không chỉ ở những vần
thơ nghiêm túc, dè dặt, đầy hoài nghi trước bao biến chuyển của cuộc đời mà còn nổi tiếng ở
khía cạnh là nhà thơ sống ẩn dật và khá rụt rè khi sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt ý tưởng. Suốt
đời mình, Dickinson chỉ viễn du vài chuyến ra ngoài lãnh địa của cha bà. Đó là chuyến đi đến
Philadelphia, đến thủ đô Washington D.C., vài chuyến đến Boston. 56 tuổi đời của Dickinson
hầu như là 56 năm quẩn quanh thành phố quê hương Amherst, Massachusetts. Sau tuổi 40, bà
không bao giờ rời khỏi lãnh địa của gia đình ở Amherst. ấy thế mà thế giới bên ngoài luôn hiện
diện trong bà. Chúng đối thoại với tâm hồn rộng mở, sâu thẳm và đầy độ lượng, bao dung. Cũng
vẫn là chuyện tình yêu, mãi muôn đời thi nhân đâu ngừng bày tỏ:
Chúng ta học tất cả
Mọi điều về tình yêu
Những vần và những chữ
Không thiếu một chương nào
Học đến toàn bộ sách
Kết thúc luôn nhiệm màu
Nhưng sao trong ánh mắt
Vẫn dại hơn bao giờ
(Phan Nhật Chiêu dịch)
Trái tim yêu với vô vàn cung bậc, càng yêu con người càng không thấu hết vẻ diệu kì của nó.
Với thi sĩ nói chung và riêng Dickinson cũng thế, người ta sợ cái đích đến của tình yêu.
Dickinson trong thơ và cũng như trong đời thực đều luôn giữ cho tình yêu một khoảng cách để...
yêu. Khi Otis Lord ngỏ lời cầu hôn, Dickinson từ chối với lí do rằng bà đã quá yêu Otis Lord nên
mới không đồng ý lấy ông làm chồng. Cũng thế, trong thơ, Dickinson đã diễn đạt đầy triết lí suy
nghĩ này:
Tôi sẽ mang đến đấy
Diệu kì một trái tim
Mà tôi không đủ sức
Mang chứa ở trong mình.
Trong tôi từng ấp ủ
Trái tim ấy mênh mông
Và tim tôi từ đó
Cũng lớn lên không ngừng
Tim tôi càng lớn rộng
Người trở nên lạ lùng
Trái tim này bát ngát
Người làm sao bao dung?[2]
(Phan Nhật Chiêu dịch)
Dickinson ngưỡng mộ thơ của John Keats và thơ của Elizabeth Barrett Browning, nhưng bà
tránh sự làm dáng và không để rơi vào phong cách lãng mạn du dương bay bổng của thời mình.
Thay vào đó, Dickinson sáng tạo nên kiểu thơ với các hình ảnh xác thực và súc tích. Thường
xuyên bộc lộ sự thông tuệ và nhạo báng, thẳng thắn đến mức trần trụi và để lộ cái nhìn sâu sắc về
thế giới bên trong của con người.
Đôi khi người ta định danh thơ Dickinson là “thơ của ẩn sĩ”, “thơ của người bán bệnh tật”, của
người mang nặng nội tâm với trái tim rỏ máu hay là người sợ không gian rộng lớn,... tất cả nhằm
biến bà thành một nữ sĩ lập dị và có phần xa lạ với mọi người. Thực tế, thơ bà mang sắc thái
trầm tư, thảng hoặc xuất hiện mấy bài thơ vui và thơ mang chất tụng ca... Nổi bật trong thơ
Dickinson là những bài thơ hoặc vần thơ triết lí. Một bài tiêu biểu Trí tuệ rộng hơn bầu trời (The
brain is wider than the sky):
Trí tuệ nặng như Thượng Đế
Ví thử đặt Cân bên Cân
Thì chỉ khác chăng có thể
Tựa như Âm tiết với Lời
Thế kỉ XIX, các nghệ sĩ nối tiếp mạch tôn sùng lí trí được khởi phát từ thời Phục hưng. Nhờ lí
trí, con người mới có chỗ dựa mới và họ dần thoát ra khỏi cái bóng của Chúa. Nhờ lí trí, con
người ngày một tự tin vào bản thân mình. Lí trí “hiện hình” bằng những phát kiến và thành quả
khoa học. Dựa vào đó, con người mới biết trái đất quay xung quanh mặt trời, trái đất hình tròn
chứ không phải là hình vuông, trung tâm của vũ trụ như lời Chúa dạy. Những nhận thức lại này
đã khiến con người hoài nghi về một thiên đường ở trên cao. Liệu nó có tồn tại? Thật quá mơ hồ
và chẳng ai có thể biết. Vậy nên, những giá trị vật chất và những tiêu chí xác thực từng bước dần
thay thế cho những viễn tượng mơ hồ. Tư duy thơ của Dickinson cũng nằm trong mạch thức
nhận chung ấy.
Tuy nhiên, cần phải thống nhất với nhau rằng, dù có lí trí và tỉnh táo đến đâu, thơ Dickinson vẫn
cứ hiện diện đầy đủ những giai điệu lãng mạn, đầy ẩn dụ theo lối tư duy thơ thế kỉ XIX. Cũng
thế, tâm hồn nhà thơ có đầy trăn trở đên đâu thì cũng ngập tràn cảm xúc và thăng hoa, đến mức
bà đã chọn một ngôi sao làm em trong thi phẩm: Tôi có Cô em trong nhà (One sister have I in
our house):
Tôi có Cô em trong nhà
Và một em nữa ở xa
Chỉ có một em được nhắc
Cả hai đều thuộc về tôi
Một đi theo đường tôi đi...
Và mặc đồ tôi năm trước
Em kia như chim trong tổ
Giữ tim chúng tôi ở cùng
Em không hát như chúng tôi
Mà bằng một giai điệu khác
Với bản thân em là nhạc
Như Ong nghệ của Mùa hè
Không thể không ngợi ca chất trí tuệ trong thơ Dickinson. Chất trí tuệ đó làm nên sự tinh tế đặc
dị và những cảm nhận sâu sắc trong thơ bà. Nét phong cách đó được giới học giả tán dương và ta
có thể thấy được sự tác động không nhỏ của nó đối với nhiều cây bút thơ, thậm chí là ở thế kỉ
XXI này. Bài thơ Đêm cuồng say! – Đêm cuồng say! chúng tôi đã dẫn bên trên hay bài Chỉ vừa
mất, khi tôi được cứu! (Just lost, when I was saved!) dưới đây sẽ không bao giờ cũ với thời gian:
Chỉ vừa mất, khi tôi được cứu!
Chỉ nhận ra khi thế giới vừa qua!
Chỉ cho tôi vì khởi đầu Vĩnh Cửu,
Khi hơi thở phục hồi,
ở phía bên kia
Tôi nghe rút lui cơn thuỷ triều thất vọng!
Làm Kẻ quay về, vậy thì tôi thấy
Những bí mật của giới hạn kia để ngỏ đôi lời
Một Thuỷ thủ men theo bờ xa lạ
Một Phóng viên nhợt nhạt từ cánh cửa kinh hoàng
Trước Dấu niêm phong!
Lần tới, hãy ở lại!
Lần tới có nhiều thứ để nhìn
Bởi tai không nghe
Bởi mắt không xét xem kỹ lưỡng
Lần tới, hãy nán lại
Trong lúc tuổi tác đánh cắp
Thế kỉ mệt nhoài lê chân
Và Vòng quay thời gian!
Như một nghịch lí, mặc dù thơ Dickinson đầy vẻ do dự, nhưng cái cách bà viết chúng ra thì thật
thoải mái. Điều đó chứng tỏ, bà luôn là người làm chủ ngôn từ. Bắt nó phải quy phục xúc cảm và
tư duy mình. Với Dickinson làm thơ thật dễ dàng hệt như ai đó hít thở khí trời. Nhưng đấy là
một “lối