Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Các Mác

1. Đặt vấn đề Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác được xem là một cuộc cách mạng trong nghiên cứu về xã hội, lịch sử. Học thuyết này đã vạch rõ cách tiếp cận, điểm xuất phát để nghiên cứu về đời sống xã hội, làm sáng tỏ bản chất, cấu trúc của một hình thái kinh tế - xã hội và lôgíc nội tại, căn nguyên bên trong, nguồn gốc, động lực, hệ thống quy luật khách quan của sự biến đổi, phát triển xã hội, khái quát quan điểm coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là quá trình vừa diễn ra theo quy luật chung, phản ánh con đường phát triển chung của lịch sử nhân loại, vừa thể hiện nét riêng, tính đặc thù trong sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Trong sự so sánh cách tiếp cận nghiên cứu xã hội của C.Mác với các cách tiếp cận khác trong lịch sử tư tưởng và trong triết học phương Tây hiện đại, học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã khẳng định tính ưu trội của mình. Có thể khẳng định rằng: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã tạo ra một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển của các khoa học nghiên cứu về xã hội loài người. Học thuyết đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

pdf13 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Các Mác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci. Science., 2010, Vol. 55, No. 7, pp. 47-59 GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA CÁC MÁC Vũ Thị Kim Dung Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Đặt vấn đề Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác được xem là một cuộc cách mạng trong nghiên cứu về xã hội, lịch sử. Học thuyết này đã vạch rõ cách tiếp cận, điểm xuất phát để nghiên cứu về đời sống xã hội, làm sáng tỏ bản chất, cấu trúc của một hình thái kinh tế - xã hội và lôgíc nội tại, căn nguyên bên trong, nguồn gốc, động lực, hệ thống quy luật khách quan của sự biến đổi, phát triển xã hội, khái quát quan điểm coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là quá trình vừa diễn ra theo quy luật chung, phản ánh con đường phát triển chung của lịch sử nhân loại, vừa thể hiện nét riêng, tính đặc thù trong sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Trong sự so sánh cách tiếp cận nghiên cứu xã hội của C.Mác với các cách tiếp cận khác trong lịch sử tư tưởng và trong triết học phương Tây hiện đại, học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã khẳng định tính ưu trội của mình. Có thể khẳng định rằng: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã tạo ra một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển của các khoa học nghiên cứu về xã hội loài người. Học thuyết đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. 2. Nội dung 2.1. Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết của Mác về hình thái kinh tế - xã hội 2.1.1. Tư tưởng về cách tiếp cận, điểm xuất phát để nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội Khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã lấy điểm xuất phát từ quan niệm duy vật lịch sử cho rằng lịch sử phát triển của xã hội loài người suy đến cùng là lịch sử của sản xuất, lịch sử của sự thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất. Khái niệm “hoạt động sản xuất” được C.Mác đề cập đến bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và tái sản xuất ra chính bản thân con người. 47 Vũ Thị Kim Dung Đây là đặc trưng riêng, vốn có của con người và xã hội loài người, trong đó hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò chủ đạo, là then chốt, nền tảng, giữ vai trò quyết định đối với các dạng hoạt động sản xuất khác. Theo C.Mác, hoạt động sản xuất vật chất là quá trình con người tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, xã hội. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, mọi hoạt động của con người trong tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người đã dựa trên những cơ sở, tiền đề vật chất nhất định, và “tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại” là “sự tồn tại của cá nhân những con người sống”. Hành vi đầu tiên mà con người tham dự vào lịch sử là hoạt động lao động “sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”, và khi sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó của mình, “con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [2;29]. Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ sáng tạo ra những điều kiện vật chất cho sự tồn tại và phát triển của mình mà đồng thời sáng tạo ra những quan hệ xã hội của mình, từ đó sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. Trong tác phẩm Lao động làm thuê và tư bản, C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó” [3;552] Không chỉ sáng tạo ra những mối liên hệ và quan hệ xã hội, trong quá trình sản suất, cùng với việc biến đổi giới tự nhiên, biến đổi đời sống xã hội, con người đồng thời biến đổi chính bản thân mình. Ph.Ăngghen đã khẳng định trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên: “Lao động là điều kiện cơ bản và đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [6;641]. Như vậy, theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, bằng hoạt động lao động trong suốt tiến trình lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại, con người đã hình thành nên những mối quan hệ khách quan, phổ biến: Quan hệ của con người với giới tự nhiên, biểu hiện ở lực lượng sản xuất và quan hệ của con người với nhau để tiến hành sản xuất biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Đây là hai mặt quan hệ thống nhất biện chứng với nhau trong một phương thức sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Lịch sử xã hội loài người về bản chất là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, tức là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hôị, phương thức sản xuất lỗi thời được thay thé bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. 48 Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Các Mác Sự biến đổi của phương thức sản xuất xã hội sẽ kéo theo sự biến đổi toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, với tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo. . . Khái quát lịch sử phát triển của nhân loại, C.Mác đã kết luận: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta” [5;500]. Như vậy, C.Mác đã chọn điểm xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất - hành vi lịch sử đầu tiên của con người để nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội. Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi chính bản thân mình. Sự phát triển không ngừng của sản xuất vật chất quy định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, làm cho xã hội phát triển từ hình thái thấp lên hình thái cao hơn. Cơ sở sâu xa của mọi hiện tượng xã hội và của mọi sự biến đổi xã hội chính là từ trong nền sản xuất vật chất. Với xuất phát điểm nghiên cứu như vậy, C.Mác đã xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, một học thuyết nói lên thực chất quan niệm duy vật về lịch sử. 2.1.2. Tư tưởng về bản chất, cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội và tính quy luật trong biện chứng của sự phát triển xã hội Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Hình thái kinh tế - xã hội (HTKT-XH) là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, HTKT-XH là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng xã hội. Mỗi mặt của HTKT-XH là một phương diện tồn tại của các quan hệ xã hội cơ bản, có vị trí riêng và thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi HTKT-XH. Hình thái kinh tế- xã hội khác nhau tương ứng với lực lượng sản xuất ở những trình độ khác nhau. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ mà nền sản xuất xã hội đã đạt được trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Ví dụ: Trình độ nông nghiệp lạc hậu, trình độ công nghiệp (cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá), hậu công nghiệp (tin học hoá, kinh tế tri thức...). Sự phát triển của lực lượng sản xuất là căn nguyên “suy đến cùng” của mọi sự biến đổi, phát triển xã hội, là nhân tố quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các HTKT-XH. 49 Vũ Thị Kim Dung Cơ sở hạ tầng của xã hội được tạo thành từ các quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, nền tảng chi phối và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác. Từ sự phân tích, xem xét mối quan hẹ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành đời sống xã hội, học thuyết hình thái kinh tế xã hội của C.Mác đã nêu rõ: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ sản xuất này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị với những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung” [4;15]. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sự tồn tại của mỗi HTKT-XH được đặc trưng bởi một kiểu quan hệ sản xuất xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Kiến trúc thượng tầng xã hội là tổng thể các quan hệ về chính trị, pháp quyền và các quan hệ văn hoá, tinh thần khác. Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển trên nền tảng của một cơ sở hạ tầng nhất định, phù hợp với cơ sở hạ tầng đó. Kiến trúc thượng tầng có chức năng duy trì, củng cố, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng là những mặt cơ bản trong cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội. Các mặt đó quan hệ thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Ngoài những mặt cơ bản đó, trong cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội còn có các phương diện được hợp thành từ các mối quan hệ xã hội khác như quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc. . . Các quan hệ đó gắn kết với nhau một cách mật thiết, cùng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định, và tồn tại, biến đổi, phát triển cùng với các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ tầng xã hội đó. Phép biện chứng duy vật đã vạch rõ nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Chính sự tác động biện chứng giữa các mặt, các yếu tố bên trong, hợp thành cấu trúc của một HTKT-XH đã biểu hiện ra thành quy luật khách quan, phổ biến của xã hội loài người, chi phối sự vận động, biến đổi, phát triển từ thấp đến cao của các hình thái xã hội khác nhau trong lịch sử. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất chi phối sự vận động và phát triển của xã hội. Trong mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là phương diện quan hệ kinh tế - kỹ thuật, còn quan hệ sản xuất 50 Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Các Mác là phương diện quan hệ kinh tế - xã hội của nền sản xuất xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất trong mỗi gian đoạn lịch sử biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất được thể hiện ra ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, năng lực lao động của người lao động, trình độ tổ chức, phân công lao động xã hội, đặc biệt là trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tương ứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trong tiến trình lịch sử, cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá. Khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, sản xuất nhỏ là chủ yếu, lao động chủ yếu dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá. Sự phát triển của khoa học và sự ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất đóng vai trò to lớn, ngày càng trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lực lượng sản xuất và của nền sản xuất xã hội. Ngày nay, khoa học đã phát triển đạt tới trình độ trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống. Khoa học đã trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Tri thức khoa học thấm sâu và hiện diện trong mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh của tiến trình sản xuất. Khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng của lực lượng sản xuất hiện đại trong thời đại ngày nay. Trong quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất có vai trò quyết định, nhưng quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nó sẽ thúc đẩy mạnh mẽ lực lượng sản xuất phát triển. Còn khi quan hệ sản xuất đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một phương thức sản xuất xã hội là quan hệ giữa nội dung và hình thức. Lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của nội dung. Khi không còn phù hợp, nó sẽ trở thành yếu tố kìm hãm, cản trở. Sự mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức phát triển tới mức chín muồi, tất yếu sẽ được giải quyết. Theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sớm hay muộn, tất yếu sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là vấn đề cơ bản trong hệ thống các quy luật xã hội. Nó diễn ra không đơn giản, một sớm một chiều mà là cả một quá trình biến đổi xã hội sâu sắc, là kết quả của hoạt động nhận thức và thực tiễn đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội của quần chúng nhân dân lao động, của các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng. Tiến trình đó diễn ra lâu dài và khó khăn, đặc biệt là trong các giai đoạn mang tính bước ngoặt của tiến trình lịch sử. 51 Vũ Thị Kim Dung Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng tạo thành quy luật khách quan, phổ biến của xã hội loài người, trong đó cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ: Cơ sở hạ tầng là nền tảng để hình thành trên nó một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Cơ sở hạ tầng của xã hội như thế nào thì kiến trúc thượng tầng xã hội như thế ấy. Tính chất của kiến trúc thượng tầng được quyết định bởi tính chất của cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm quyền thống trị về kinh tế thì cũng nắm quyền thống trị về mặt chính trị, tinh thần, tư tưởng của xã hội. Nếu cơ sở hạ tầng xã hội có mâu thuẫn, tức là mâu thuẫn trong cơ cấu kinh tế, thì tất yếu dẫn tới những mâu thuẫn trong các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, đặc biệt là những mâu thuẫn trong các lĩnh vực chính trị, tinh thần tư tưởng của xã hội. . . Khi cơ sở hạ tầng của xã hội thay đổi thì sớm hay muộn tất yếu sẽ diễn ra sự thay đổi trong kiến trúc thượng tầng. C.Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” [4;14]. Biểu hiện của sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Khi cơ sở hạ tầng xã hội thay đổi, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng như nhà nước, pháp luật, hệ tư tưởng chính trị. . . , sự thay đổi diễn ra nhanh chóng. Nhưng có những yếu tố thay đổi chậm, hoặc rất chậm như tôn giáo, nghệ thuật, tâm lý xã hội. . . Có những yếu tố vẫn tiếp tục được kế thừa, phát triển trong điều kiện xã hội mới. Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách tự phát mà là kết quả của hoạt động thực tiễn tự giác thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội tạo ra sự biến đổi trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Kiến trúc thượng tầng xã hội được hình thành, phát triển trên nền tảng của cơ sở hạ tầng, tức cơ cấu kinh tế của một xã hội, chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng, đồng thời tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Vai trò của kiến trúc thượng tầng thể hiện ở vai trò của nhà nước, hệ tư tưởng chính trị, pháp luật, hệ thống giáo dục đào tạo quốc dân, tri thức khoa học, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật, các tổ chức, thiết chế xã hội, v.v. . . . Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện trên hai hướng: Một là, khi kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội khách quan, nó sẽ có tác động mạnh mẽ đối với việc duy trì, củng cố, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Hai là, khi những yếu tố của kiến trúc thượng tầng không còn phù hợp, đã trở nên lạc hậu hơn so với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng, nó sẽ cản trở, kìm hãm, tác động tiêu cực đến sự ổn định, bền vững và phát triển của cơ sở hạ tầng. Đồng 52 Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Các Mác thời do tính độc lập tương đối và tính sáng tạo của ý thức xã hội, sẽ có khả năng về sự xuất hiện một bộ phận tiên tiến trong kiến trúc thượng tầng (đó là những hệ tư tưởng chính trị, khoa học, văn hoá, nghệ thuật tiến bộ, cách mạng có tính vượt trước) có sứ mệnh mở đường cho nhận thức và thực tiễn, giác ngộ và tập hợp các lực lượng xã hội tiến bộ nhằm tiến hành một cuộc cách mạng xã hội xoá bỏ cơ sở hạ tầng đã lỗi thời đó để thiết lập cơ sở hạ tầng xã hội mới tiến bộ hơn. Kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng. Nhưng nguyên nhân xét đến cùng quyết định tiến trình khách quan của lịch sử vẫn là yếu tố kinh tế. Phải tìm nguồn gốc động lực thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã hội từ cơ sở kinh tế. Quên mất điều đó, tuyệt đối hoá vai trò của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng sẽ không tránh khỏi rơi vào sai lầm của chủ nghĩa duy tâm. Trong hệ thống quan điểm về tính quy luật trong sự phát triển của xã hội, học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội cũng phân tích sâu sắc về vai trò của giai cấp, nhà nước và cách mạng xã hội trong biện chứng của sự phát triển xã hội, coi đó như là những mắt khâu quan trọng trong tiến trình lịch sử tự nhiên của xã hội loài người. 2.1.3. Tư tưởng coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên Với quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử, C.Mác đã đi đến kết luận rằng, xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau. Ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Tiến bộ xã hội là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn mà nguồn gốc sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Trong Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất bộ Tư bản, C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Luận điểm đó đã được V.I.Lênin giải thích thêm: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuẫt thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội được” [1;163]. Nguyên lý về sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một