Giả trinh thám trong tự sự hậu hiện đại

1. Đặt vấn đề Không tin vào những trạng thái “tĩnh”, bởi nó luôn có nguy cơ chứa đựng các đại tự sự, các nhà hậu hiện đại thường đặt nhân vật của mình trên hành trình. Đối với con người hậu hiện đại, mục đích của hành trình không bao giờ quan trọng bằng chính hành trình. Do vậy, hành trình là tiêu chí tối thượng trong hành động nhân vật. Nếu dừng lại, con người sẽ thỏa mãn và như thế ứng với mỗi chặng dừng trên hành trình, rất có thể một đại tự sự được thiết lập. Do vậy, “đi” đồng nghĩa với tạo lập những tiểu tự sự trên đời. Truyện trinh thám đặt nền tảng trên “hành trình”, trên một tình huống một sự việc li kì, bí ẩn nào đó, thường liên quan đến một vụ án. Do vậy những yếu tố quan trọng của một truyện trinh thám sẽ là cốt truyện chứa đựng nhiều đột biến, cùng một nhân vật thám tử thông thái. Do vậy, khi các nhà hậu hiện đại sáng tác tác phẩm theo kiểu giả trinh thám, thì thực chất họ “giả cốt truyện”, hoặc “giả nhân vật trinh thám”. Họ giữ nguyên mục đích truy tìm vốn là bản chất của truyện trinh thám, nhưng lại thay đổi mục đích truy tìm bằng cách đan cài vào đó nhiều chủ đề, nhiều tuyến cốt truyện. Mục đích là tái hiện sự hỗn độn của cuộc sống, sự mù mịt không có lối thoát khi thám tử tham gia vào cuộc truy tìm, và trong đa số trường hợp, trinh thám hậu hiện đại đặt mục tiêu là trinh thám ngay chính cái tôi bản thể con người.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giả trinh thám trong tự sự hậu hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2011, Vol. 56, No. 2, pp. 39-45 GIẢ TRINH THÁM TRONG TỰ SỰ HẬU HIỆN ĐẠI Lê Huy Bắc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Đặt vấn đề Không tin vào những trạng thái “tĩnh”, bởi nó luôn có nguy cơ chứa đựng các đại tự sự, các nhà hậu hiện đại thường đặt nhân vật của mình trên hành trình. Đối với con người hậu hiện đại, mục đích của hành trình không bao giờ quan trọng bằng chính hành trình. Do vậy, hành trình là tiêu chí tối thượng trong hành động nhân vật. Nếu dừng lại, con người sẽ thỏa mãn và như thế ứng với mỗi chặng dừng trên hành trình, rất có thể một đại tự sự được thiết lập. Do vậy, “đi” đồng nghĩa với tạo lập những tiểu tự sự trên đời. Truyện trinh thám đặt nền tảng trên “hành trình”, trên một tình huống một sự việc li kì, bí ẩn nào đó, thường liên quan đến một vụ án. Do vậy những yếu tố quan trọng của một truyện trinh thám sẽ là cốt truyện chứa đựng nhiều đột biến, cùng một nhân vật thám tử thông thái. Do vậy, khi các nhà hậu hiện đại sáng tác tác phẩm theo kiểu giả trinh thám, thì thực chất họ “giả cốt truyện”, hoặc “giả nhân vật trinh thám”. Họ giữ nguyên mục đích truy tìm vốn là bản chất của truyện trinh thám, nhưng lại thay đổi mục đích truy tìm bằng cách đan cài vào đó nhiều chủ đề, nhiều tuyến cốt truyện. Mục đích là tái hiện sự hỗn độn của cuộc sống, sự mù mịt không có lối thoát khi thám tử tham gia vào cuộc truy tìm, và trong đa số trường hợp, trinh thám hậu hiện đại đặt mục tiêu là trinh thám ngay chính cái tôi bản thể con người. 2. Nội dung nghiên cứu Chúng ta đã biết, với một cốt truyện trinh thám, trung tâm của nó bao giờ cũng bao gồm một vụ án bí hiểm, có thể đó là một tội ác. Tuy nhiên, các nhà trinh thám không đặt nặng vấn đề tội ác mà chỉ lấy đó làm cớ để phát triển câu chuyện dựa trên “sự điều tra”. Quá trình điều tra này đưa người kể, người đọc xâm nhập vào vùng bí ẩn của tội lỗi, giúp con người nhận ra được chân tướng sự vật, biết được ai là kẻ có tội. Và ai là người đáng ngợi ca... Một cấu trúc trinh thám hoàn chỉnh về mặt nhân vật sẽ bao gồm: nạn nhân – thám tử – tội phạm, đương nhiên cả thời gian và địa điểm cũng đóng vai trò quan trọng trong một câu chuyện trinh thám. 39 Lê Huy Bắc Các nhà hậu hiện đại ưa thích cấu trúc này, bởi sự tương đồng của quá trình đi tìm sự thật của truyện trinh thám cũng chính là quá trình xâm nhập cõi vô thức đi tìm bản ngã của chính mình, thâm nhập vào bản chất ngôn ngữ của nhà văn trong tái tạo hiện thực. Những tác phẩm nổi tiếng thuộc khuynh hướng giả trinh thám thường được các nhà nghiên cứu nhắc đến là Tên của đóa hồng (Umberto Eco), Thành phố thủy tinh (Paul Auster)... Ngay khi Tên của đóa hồng (Name of the rose) ra đời, tờ New York Times đã ghi nhận tính chất trinh thám của thiên truyện: “Hãy tưởng tượng một lâu đài thời trung cổ, với các viên quản hầm, làm vườn, dược thảo sư và các tu sinh trẻ. Lần lượt sáu tu sĩ bị ám sát bằng những cách hết sức kì quặc. Một học giả dòng Francisco được phái đến để khám phá sự bí ẩn đó, nhưng rồi ông lại thấy mình vướng vào những điều bí ẩn còn đáng sợ hơn nữa... Và thế là bắt đầu cuộc truy tìm điều bí mật và ý nghĩa thực sự của các từ ngữ, biểu tượng, ý tưởng, tất cả những dấu hiệu có thể nghĩ ra được mà thế giới hữu hình chứa đựng đằng sau bức màn bí mật đó” (SachHay.com). Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Umberto Eco ngay lập tức đã trở thành “một biến cố văn học”, “một cú sốc của tiểu thuyết đương đại”. Ra đời năm 1980, Tên của đóa hồng là tác phẩm pha trộn nhiều thể loại. Trên nền của một câu chuyện trinh thám, cuốn tiểu thuyết kết hợp trong nó lí thuyết kí hiệu học, lí luận về văn bản mở, những nghiên cứu thời Trung cổ cũng như những chú giải thánh kinh... Tóm lại đó là văn bản mang trong mình sự thách thức lớn lao đối với tri thức và cảm xúc của con người. Sử dụng hình thức truyện trinh thám đầy lôi cuốn, Umberto Eco đan cài vào Tên của đóa hồng những vấn đề lịch sử, tôn giáo của thời Trung cổ. Tác phẩm đặc biệt hướng đến vấn đề bản thể con người, một vấn đề mà chủ nghĩa hậu hiện đại quan tâm. Trong cuộc kiếm tìm và hoài nghi chân lí liên tục, cái đích cuối cùng của tác phẩm hướng đến là để trả lời câu hỏi thường trực trong truyện trinh thám: – Kẻ thủ ác là ai? Nhưng câu trả lời thì chẳng dính dấp gì nhiều đến bản chất của thể loại truyện hư cấu này mà lại liên quan đến vấn đề triết học muôn thuở: – Chúng ta chính là kẻ có tội. Nhan đề của tác phẩm là Tên của đóa hồng nhưng người đọc sẽ chẳng gặp bất kì một bông hồng nào trong tác phẩm. Tất cả chỉ mang nghĩa ẩn dụ. Chính điều này đã đưa Tên của đóa hồng vượt qua khuôn khổ của một cuốn tiểu thuyết trinh thám, để hướng đến những ẩn dụ tuyệt vời về một hệ thống các kí hiệu và biểu tượng: từ các vụ án, các bản thánh ca, nhà thờ, triết học Aristotle... nhằm đưa người đọc vào một thế giới mê cung của xã hội Trung cổ và đồng thời là hình bóng của mê cung hậu hiện đại, nơi lóe sáng những “đường dẫn” đến chân lí. Cái chân lí không nằm trong những thuyết giáo định sẵn, mà nằm ngay trong chính bản thân 40 Giả trinh thám trong tự sự hậu hiện đại nó, bản thân người truy tìm: “Có lẽ sứ mệnh của kẻ yêu nhân loại, là làm con người biết cười vào chân lí, làm chân lí cười lên, vì chân lí duy nhất chính là việc học để giải phóng chúng ta ra khỏi sự đam mê chân lí một cách mù quáng” (Tên của đóa hồng, Ngày thứ bảy, đêm). Câu chuyện thầy trò Guillaume truy tìm thủ phạm, gắn với quyển sách bí ẩn của Aristotle, đã gợi ra một sự phản kháng rằng những lề luật thiêng liêng của giáo hội không thể đày đọa, giam giữ con người. Chính sức mạnh của lí trí đã hướng con người đến với chân lí, giúp họ niềm tin để vượt qua những chế định của Chúa. Tác phẩm kết thúc khi thư viện rơi vào một cuộc đại hỏa hoạn, nhân vật thủ thư Jorge de Burgo, hiện thân cho sự ngu muội tôn giáo, một kẻ bảo thủ, tàn ác, đã gây ra những cái chết thảm khốc, chính y là người đã hủy hoại cuốn sách của Aristote và tự thiêu chết mình. Umberto Eco được bình chọn là một hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực Nobel văn học từ mấy năm nay. Ông chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lí luận hậu hiện đại của thế giới. Là một triết gia, một nhà kí hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia và là giáo sư của nhiều trường đại học, tư tưởng học thuật của Eco đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của giới nghiên cứu trong suốt nhiều thập niên qua. Đặc biệt là lí thuyết về văn bản mở. Hai mươi năm sau khi Tên của đóa hồng ra đời, nhân loại lại được tiếp xúc với một tác phẩm có cùng phương pháp sáng tác “giả trinh thám”. Đó chính là một kiệt tác của nhà văn đoạt Nobel văn chương năm 2006 Orhan Pamuk. Người đọc dễ nhận ra dấu ấn từ tác phẩm của Umberto Eco với Tên tôi là Đỏ của văn hào Thổ Nhĩ Kì này. Tên tôi là Đỏ xuất bản năm 2000, được xem là tác phẩm vĩ đại trong sự nghiệp sáng tạo của Orhan Pamuk. Lấy bối cảnh Istambul ở thế kỉ XVI, dựa trên sườn của một cốt truyện trinh thám liên quan đến cái chết của thợ cả Zarif, Pamuk đã tái hiện những cuộc xung đột nảy lửa, những mâu thuẫn quyết liệt, những tâm hồn không thể tìm ra tiếng nói chung để kết cục dẫn đến ba cái chết bi thảm của thợ cả Zarif, Enishte Kính mến và thợ cả Zeytin. Cốt truyện trinh thám của cuốn tiểu thuyết có những sự kiện chính sau: sau gần bốn ngày mất tích, xác của thợ cả Zarif được tìm thấy dưới đáy một cái giếng hoang cạn nước. Cái chết đó gây hoang mang trong giới tiểu họa Istanbul và dẫn đến sự nghi ngờ lẫn nhau giữa các nhà tiểu họa. Ngay trong đêm dự đám tang của thợ cả Zarif về, Enishte Kính mến – người được Đức vua bí mật giao cho trọng trách làm một cuốn sách kỉ niệm năm thứ một ngàn lịch sử Hồi giáo và thể hiện sức mạnh của vương quốc Ottoman – lại bị giết chết dã man. Ông bị kẻ thủ ác ra tay bằng cách đập bình mực cổ vào đầu và mặt cho đến chết. 41 Lê Huy Bắc Nàng Shekure xinh đẹp – con gái duy nhất của Enishte, bốn năm sau cái chết của người chồng đầu tiên đang trong thời gian về ở nhà mẹ đẻ dưới sự bảo trợ của cha mình – đã bí mật bàn chuyện kết hôn và điều tra thủ phạm với chàng Siyah – người được Enishte Kính mến tin tưởng và có ý định giao phó lại việc làm tiếp quyển sách bí mật. Một đêm sau khi Enishte chết, cái chết của ông được công bố và Siyah, giờ đây là con rể hợp pháp của Enishte đã vào cung xin gặp Trưởng ngân khố, nhân vật quyền uy thứ hai của vương quốc, để trình báo sự việc. Lan tràn trong giới tiểu họa lúc này là không khí hoang mang và nỗi sợ hãi trước những cái chết thảm khốc xảy ra liên tiếp không rõ nguyên nhân. Đức vua ra lệnh bằng mọi giá phải tìm ra kẻ sát nhân. Sư phụ Osman và Siyah được giao trọng trách trong ba ngày phải tìm ra hung thủ, nếu không tất cả các nhà tiểu họa sẽ phải chịu tội. Với manh mối duy nhất là bức phác thảo một con ngựa đã nhàu nát và nhòe nước mà hung thủ để lại trên người nạn nhân thứ nhất, hai người được phép vào Quốc khố hoàng cung để nghiên cứu những bức vẽ, tìm hung thủ. Sau hai ngày ba đêm, với sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử, cũng như các trường phái hội họa cổ, sư phụ Osman đã tìm ra kẻ vẽ con ngựa kia. Đó chính là thợ cả Zeytin tài hoa, xuất sắc nhất trong Xưởng vẽ Hoàng cung. Sau khi tìm ra chân tướng thủ phạm, Siyah dùng cây kim có cán khảm xà cừ đâm vào mắt kẻ sát nhân, buộc thủ phạm phải nhận tội, minh oan cho các nhà tiểu họa và trả thù cho những nạn nhân đã chết. Thợ cả Zeytin sau khi mù mắt, đã lấy dao găm đâm Siyah bị thương và trốn thoát. Trên đường chạy trốn khỏi Istanbul, Zeytin bị Hasan – một tình địch của Siyah, cũng chính là em trai người chồng quá cố của Shekure – chém đứt đầu do ghen tuông và nhầm lẫn. Kết thúc tác phẩm, Siyah tài hoa sống hạnh phúc cùng người vợ Shekure trong suốt hai mươi sáu năm còn lại của cuộc đời cho đến khi chàng từ giã cõi đời vì bệnh tim vào một sớm mai bên bờ giếng. Câu chuyện truy lùng thủ phạm được đan cài với chuyện tình lãng mạn Siyah và Shekure. Đồng thời đó còn là câu chuyện lịch sử về nền tiểu họa Thổ Nhĩ Kì. Chiếm khoảng bốn phần năm dung lượng tác phẩm là những sự kiện liên quan đến nền tiểu họa này. Do vậy, đây mới chính là trọng tâm của tác phẩm. Nhưng do nổi lên bề mặt văn bản là câu chuyện giết người và truy lùng thủ phạm, nên đã có hiện tượng đan lồng ba cốt truyện trong tác phẩm. Đây chính là hiện tượng kép cốt truyện. Tính chất kép cốt truyện này đã tạo nên hiện tượng phi trung tâm cốt truyện, phi độc tuyến trần thuật,... tạo nên tính đa trị cho tác phẩm. Thêm vào đó, nhà văn sử dụng hàng loạt điểm nhìn trần thuật. Các điểm nhìn này, tự thân đã là những công cụ “gây rối” hữu hiệu trong tác phẩm. Chúng tạo nên nhiều hệ giọng điệu cũng như các quan điểm về sự vật hiện tượng. Mở đầu tác 42 Giả trinh thám trong tự sự hậu hiện đại phẩm người đọc kinh hoàng khi nghe thấy lời một tử thi thì thào về cái chết bất ngờ của mình. Sau lời tử thi ở chương một là lời của một nhân vật khác biệt, xa lạ nào đó ở chương hai, rồi nhảy sang lời của một con chó láu lỉnh ở chương ba... Cứ thế những sự việc và trần thuật của tác phẩm luôn được trình xuất trong thế lưỡng phân, đồng hiện nhiều nét nghĩa ngay cùng lúc mà suy luận thì luôn được đẩy về phía người đọc. Lời của tử thi, tức thợ cả Zarif Effendi, cho người đọc biết ông ta đã có vợ con, chết cách đây bốn ngày trong tư thế ngâm nửa người dưới nước, bị giết bởi một kẻ giết người dã man... Và người đọc được dẫn dắt vào ngay bầu không khí tội phạm: “Kẻ sát nhân đó là ai mà chọc giận tôi đến thế? Tại sao hắn giết tôi theo kiểu đầy bất ngờ như vậy?” với một giả thiết đầy chất trinh thám: “Cái chết của tôi ẩn chứa một âm mưu ghê rợn nhắm vào đạo giáo của chúng ta, nhắm vào các truyền thống và thế giới quan của chúng ta” [1;13]. Những giả thuyết theo kiểu này thường là những định hướng để một câu chuyện trinh thám phát triển. Nhưng vấn đề mang tầm khái quát cao đó lại không là điểm nhấn chính trong tự sự của Tên tôi là Đỏ mà đúng hơn là nó đóng vai trò đánh lạc hướng người đọc, đưa người đọc vào một mê lộ những sự kiện, vấn đề trùng phức. Để sau khi đi hết hành trình trinh thám, người đọc bỗng nhận ra rằng có rất nhiều vấn đề người viết đặt ra chỉ cốt để đối thoại, gợi mở nơi người đọc những hướng cắt nghĩa, hướng khai thác hình tượng. Văn chương trinh thám hậu hiện đại biến quá trình trinh thám thành quá trình tự trinh thám: trinh thám thế giới tâm hồn, bản ngã và khả năng tri nhận thế giới khách quan hay tri nhận năng lực tri nhận của cá nhân. Như thế đã có sự đánh tráo vai của các nhân vật trong cấu trúc trinh thám. Tội nhân vừa là tội nhân vừa không phải là tội nhân. Thám tử vừa là thám tử vừa là người chứng cho các hành vi thám tử của mình. Và đáng nói là kết cục của một truyện trinh thám hậu hiện đại lại mở ra một quá trình trinh thám khác, đi thẩm định sự trinh thám vừa được thực hiện kia. Quá trình truy tìm là của thám tử những quá trình thẩm định lại là của người đọc. Cách cấu trúc văn bản mở của trinh thám hậu hiện đại đã tạo nên một mê lộ cho những sự xâm nhập vào cắt nghĩa hành động, tội ác và chân lí của con người. Thành phố thủy tinh của Paul Auster tiêu biểu nhất cho cấu trúc trinh thám hậu hiện đại này. Dường như người kể bài bố một mê lộ qua những cái tên trong tác phẩm. Có một nhân vật nhà văn tên là Auster, một thám tử cũng tên như vậy. Có một nhà văn khác tên là Daniel Quinn. Một hôm Quinn nhận được một cú điện thoại nhờ giúp đỡ phá một vụ theo dõi để sát hại của người cha với đứa con trai Stillman, người trước đó bị ông ta bạo hành đến tàn tật. Quinn cho rằng đó là sự nhầm lẫn vì anh ta không phải là Auster thám tử, nhưng những cuộc điện thoại vẫn tiếp tục xuất hiện, quấy rầy anh đến mức anh nghĩ anh nên đến gặp những người đưa ra yêu cầu đó xem sao. Khởi đầu cho quá trình đi tìm kẻ nhầm lẫn mình là ai 43 Lê Huy Bắc đồng nghĩa với khởi đầu của một sự trinh thám để tìm xem mình là ai. Cuối cùng Quinn nhận làm thám tử cho vợ chồng Stillman. Nhiệm vụ của anh là hằng ngày theo dõi sát sao, không rời mắt khỏi Stillman cha, nhằm phát hiện có dấu hiệu nào báo thù để ra tay can thiệp. Cuối cùng Quinn lạc mất dấu vết của Stillnam cha, sau đó anh cũng không tìm được chỗ ở mới của vợ chồng Stillman con. Cuối cùng Quinn tìm đến gian phòng hoang nơi vợ chồng Stillman ở trước đây. Anh cứ nằm đó, kiệt sức. Về sau, tình cờ Quinn được nhà văn Auster cứu sống. Hành trình trinh thám đi vào ngõ cụt vì cả nạn nhân lẫn tội nhân đều biến mất không tăm tích. Thám tử rơi vào nỗi hoang mang khi tự mình đối diện với chính mình. Thám tử trở nên mù lòa trước sự biến mất đó và anh như thể đang trinh thám sự trinh thám của mình. Câu chuyện đầy chất trí tuệ. Đây chính là đặc thù của truyện trinh thám. Người viết dùng năng lực phán đoán, dùng tư duy logic của trí tuệ để đưa người đọc vào một mê lộ để hành trình cùng mình đi tìm lời giải đáp cho sự bí ẩn... Đấy là kiểu trinh thám truyền thống. Sang trinh thám hậu hiện đại, vẫn chất trí tuệ đó nhưng người đọc sẽ nhận thấy ở đây sự phá sản của trí tuệ. Con người càng cho mình sắc sảo, càng kiên trì bao nhiêu với nhiệm vụ trinh thám của mình để cuối cùng họ đối diện với một sự thật phũ phàng, tất cả đều biến mất và họ chẳng thể nào có căn cứ để truy tìm và cắt nghĩa sự biến mất đó. Bi đát thay, đến đoạn cuối họ chẳng thể nào cắt nghĩa được tại sao họ lại trở thành thám tử. Dường như thám tử chính là hành trình mà bất kì một ai cũng phải theo. Người đọc bị dẫn vào một lối đi vừa đủ sáng để nhận ra đường nhưng không đủ ánh sáng để nhìn thấy mọi chuyện. Câu chuyện như thể một quá trình thăm dò chính sự viết lách. Hành trình sáng tạo của nhà văn Paul Auster như được gửi vào đây. Sáng tạo theo một cách nhìn nào đó, chính là sự thâm nhập vào thế giới bí ẩn của vô thức. Đó chính là một hành trình trinh thám. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Auster lại có cậu con trai tên là Daniel, trùng với tên Quinn. Phải chẳng Quinn là một nhân vật do chính Auster hư cấu nên mới có cái tên trùng theo kiểu đó? Giải đáp điều này, ta cùng theo dõi các tầng bậc phả hệ truyện. Nhà văn Paul Auster ngoài đời có vợ và con trai tên là Daniel, khai sinh ra một nhà văn Paul Auster, một thám tử Paul Auster (nhân vật này chỉ được nhắc đến) trong truyện, đồng thời cũng khai sinh ra một Daniel Quinn nhà văn nữa. Quinn được vợ chồng Stillman con thuê làm thám tử, vì người thuê nhầm Quinn là thám tử Paul Auster. Như thế, phải chăng nhà văn muốn ám chỉ hành trình sáng tạo của nhà văn cũng chính là hành trình của một nhà trinh thám, hành trình xâm nhập và khám phá một tội lỗi hoặc một tội ác nào đó. Khi nhà văn Quinn thử nhận vai trinh thám thì cũng đồng thời anh dấn thân vào một cuộc phiêu lưu sáng tạo mới. Nhưng rồi khi 44 Giả trinh thám trong tự sự hậu hiện đại cả nạn nhân và tội nhân bỗng nhiên biến mất, Quinn đâu có việc gì để làm. Anh ta hết vai trò, đang nằm chờ chết tại chính căn phòng chung cư bỏ hoang của vợ chồng Stillman con. Nhân vật này được Paul Auster “cứu sống”. Chi tiết này càng ám gợi việc Quinn là cái “tôi” nghệ sĩ hư cấu của Auster. Kết thúc tác phẩm, chỉ còn lại nhà văn Paul Auster, người vừa hoàn thành câu chuyện trinh thám của mình. 3. Kết luận Dưới tác động của cái nhìn đa trị từ triết học hậu hiện đại, nền văn học hậu hiện đại đã có nhiều biến chuyển. Những cách tân lối viết xuất hiện mạnh mẽ và ngày càng táo bạo. Văn học hậu hiện đại tạo nên những hình thức sáng tạo độc đáo, những cách tri nhận thế giới bằng hình tượng sâu sắc... Tất cả nhằm giúp con người nhận thức ra rằng những sáng tạo của con người là không giới hạn, những cái đẹp cũng như chân lí trên đời là không nhất thành bất biến. Điều quan trọng là người đọc có nhập cuộc và tham dự hành trình sáng tạo kia không. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Orhan Pamuk, 2007. Tên tôi là Đỏ, Phạm Viêm Phương và Huỳnh Kim Oanh dịch. Nxb Văn học, Hà Nội. [2] Jean–Franc¸ois Lyotard, 2007. Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch. Nxb Tri thức, tr. 15. [3] David Harvey, 1989. Postmodernism, in The Condition of Postmodernity. Oxford, Basil Blackwell. [4] Marlies K. Danziger..., 1961.An Introduction to Literary Criticism, Mass, D.C.Heath and Co., ABSTRACT Pseudo–Detective in the post-modern narrative One of the main tendencies of the post-modern narrative is the pseudo – detective. By the concept of life being a journey, an endless mystery detection of the soul, and there is also a beautiful journey of discovery, post-modern writers have constructed a type of detective fiction. They still kept the basics of old detective stories but having innovations in order to prevent readers from putting in a final end. The end of this adventure is another detective story. This process has brought the readers to become fans of the detective story. 45