Giải pháp cho vấn đề tăng dân số trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Tóm tắt: Hiện nay Đảng và nhà nước Việt Nam đã xác định rõ vai trò và tầm ảnh hưởng của công tác dân số trong tình hình mới của đời sống xã hội, do đó trong thời gian qua công tác dân số được coi là một trong những bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển toàn diện đất nước; là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu; là yếu tố cơ bản để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người và toàn xã hội. Bài viết sẽ chỉ ra một số vấn đề “nóng” về việc tăng dân số, từ đó làm rõ hơn thực trạng và đưa ra các giải pháp thiết thực cho Tỉnh Nghệ An trong giai đoạn tới.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp cho vấn đề tăng dân số trên địa bàn tỉnh Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
➢➢➢ 46 GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ TĂNG DÂN SỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN Nguyễn Thị Thu Hà* Tóm tắt: Hiện nay Đảng và nhà nước Việt Nam đã xác định rõ vai trò và tầm ảnh hưởng của công tác dân số trong tình hình mới của đời sống xã hội, do đó trong thời gian qua công tác dân số được coi là một trong những bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển toàn diện đất nước; là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu; là yếu tố cơ bản để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người và toàn xã hội. Bài viết sẽ chỉ ra một số vấn đề “nóng” về việc tăng dân số, từ đó làm rõ hơn thực trạng và đưa ra các giải pháp thiết thực cho Tỉnh Nghệ An trong giai đoạn tới. 1. Thực trạng Dân số trên địa bàn tỉnh Nghệ An Tốc độ tăng trưởng dân số bình quân của Nghệ An đang ở mức cao, con số này tăng 1,33% trong vòng 1 thập kỷ qua (cả nước 1,14%). Tăng trưởng dân số trong tương lai phụ thuộc nhiều vào khả năng sinh sản. Mức sinh toàn cầu được dự báo sẽ giảm từ 2,5 trẻ/phụ nữ trong giai đoạn 2010-2015 xuống còn 2,4 trẻ/phụ nữ vào giai đoạn 2025-2030 và còn 2,0 trẻ/phụ nữ vào giai đoạn 2095-2100. Tuy nhiên, đối với Nghệ An với mức sinh cao thì không có sự chắc chắn trong việc dự báo mức sinh. Cụ thể ước lượng Tổng tỷ suất sinh (TFR)1 từ kết quả Tổng điều tra năm 2019 là 2,75 con/phụ nữ, trên mức sinh thay thế; điều này cho thấy Nghệ An vẫn có mức sinh khá cao. TFR tăng từ 2,55 con/phụ nữ năm 2009 lệ 2,75 con/phụ nữ năm 2019. TFR năm 2017 đạt 2,87 con/phụ nữ (là mức sinh thời *Cục Thống kê tỉnh Nghệ An 1 Tổng tỷ suất sinh (TFR) là số con đã sinh ra sống bình quân của một người phụ nữ trong suốt thời kỳ sinh đẻ (15-49 tuổi), nếu người phụ nữ đó trong suốt thời kỳ sinh đẻ trải qua Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi (ASFR) kỳ 01/4/2016 – 01/4/2017 đạt cao nhất trong thời kỳ 2009-2019, nguyên nhân có thể do tâm lý thích sinh con vào năm đẹp - năm âm lịch Bính Thân 2016); và TFR thấp nhất vào năm 2011 cùng thời kỳ (2,49 con/phụ nữ). Năm 2018 và năm 2019 có xu hướng giảm (năm 2017-2018 giảm 0,05 con/phụ nữ và 2018-2019 giảm 0,07 con/phụ nữ). Dân số Nghệ An đang ở mức hơn 3,3 triệu người với tỷ suất sinh thô cao (20,8 trẻ sinh ra sống/1000 dân) là con số báo động về tình trạng mức sinh cao nhất so với các tỉnh trong khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và cao hơn mức sinh bình quân chung của cả nước (cả nước:16,3 trẻ sinh ra sống/1000 dân). Mặt khác, có thể thấy tình trạng sinh con ở tuổi chưa thành niên vẫn còn tồn tại trên địa bàn tỉnh. Tình trạng này đặc biệt đáng quan tâm ở khu vực núi cao nơi phát triển chậm hơn so với các khu vực khác trong tỉnh. Chưa thành niên được hiểu là những người chưa đủ 18 tuổi (bao gồm trẻ em dưới 16 tuổi và người trong độ tuổi vị thành  47 niên2); Trên phạm vi toàn tỉnh, phụ nữ chưa thành niên sinh con chiếm tỷ trọng 2,2‰, trong đó cao nhất ở vùng núi cao (9,8‰), cao hơn 12 lần so với vùng đồng bằng (0,8‰). Vùng núi thấp là vùng có tỷ lệ phụ nữ từ 10-17 tuổi sinh con cao thứ hai (1,6‰). Nguyên nhân khiến hai vùng này có tỷ lệ phụ nữ sinh con ở độ tuổi chưa thành niên cao hơn hẳn so với các vùng khác một phần là do điều kiện sống khó khăn, công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe sinh sản, ảnh hưởng của kết hôn và sinh con sớm tới sức khỏe bà mẹ trẻ em còn hạn chế; một phần là do phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số về việc lấy chồng và sinh con sớm. Tỷ lệ phụ nữ từ 10-17 tuổi sinh con ở khu vực nông thôn là 2,4‰, cao hơn ba lần so với khu vực thành thị (2,6‰). Điều này chứng tỏ nữ chưa thành niên ở khu vực nông thôn có xu hướng sinh con sớm hơn khu vực thành thị. Mặc dù, Nghệ An có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng sinh học, nhưng sự gia tăng dân số nhanh dẫn đến sự thiếu hụt nguồn lực, đồng thời phá hủy những nguồn tài nguyên hiện có. Cấu trúc nhân khẩu học được mô tả bằng hình ảnh kim tự tháp tuổi và giới tính của Nghệ An, trong đó nhóm tuổi trẻ là lớn nhất. Chỉ số già hóa có xu hướng tăng lên nhưng Nghệ An vẫn đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng. Cứ một người phụ thuộc được “gánh đỡ” bởi hai người trong độ tuổi lao động. Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi và giới tính phản ánh bức tranh tổng quát về mức 2 Luật Trẻ em ngày 05/4/2016: Điều 1. Trẻ em là người dưới 16 tuổi sinh, mức chết, tốc độ tăng dân số của một tập hợp dân số tại một thời điểm xác định và được mô tả bằng tháp dân số. Tháp dân số là một công cụ thông dụng được dùng để biểu thị sự kết hợp cơ cấu tuổi và giới tính của dân số dưới dạng hình học (đặc trưng là hình tháp). Tháp dân số được chia thành hai phần bởi đường cao từ đáy tháp lên đỉnh tháp, trong đó phần phía bên phải biểu thị dân số nữ và phía bên trái biểu thị dân số nam. Hình dạng của tháp dân số không chỉ cung cấp các thông tin khái quát về cơ cấu tuổi và giới tính của dân số vào thời điểm xác định mà còn sử dụng để đánh giá sự chuyển dịch cấu trúc dân số qua các năm; bề rộng của nhóm tuổi trẻ nhất (đáy tháp) phản ánh sự tăng hay giảm của mức sinh so với những năm trước trong khi bề rộng của nhóm tuổi cao nhất (đỉnh tháp) phản ánh sự thay đổi hay xu hướng già hóa dân số. Có sự khác biệt ở phần đáy tháp của năm 2019 so với năm 2009, cho thấy mức sinh đã có sự thay đổi, nhóm dân số trẻ em toàn tỉnh (0-4 tuổi) tăng từ 8,1% năm 2009 lên 10% năm 2019 (cụ thể dân số nam từ 4,2% lên 5,2% và nữ từ 3,9% lên 4,8%); nhóm tuổi dân số (5-9 tuổi) tăng từ 7,6% năm 2009 lên 9,3 % năm 2019 (cụ thể dân số nam từ 3,9% lên 4,8% và nữ từ 3,7% lên 4,4%). Trong khi đó nhóm dân số già (65+ tuổi) lại tăng từ 7,3% năm 2009 lên 8,3% năm 2019 (cụ thể dân số nam từ 2,9% lên 3,3% và nữ từ 4,3% lên 5%). Cấu trúc tuổi này gây áp lực lên việc cung cấp các dịch vụ giáo dục, thực phẩm, bệnh viện và nhà ở cho thanh thiếu niên, tiêu tốn một phần lớn ngân sách tỉnh nhà. Việc xem xét các kim tự tháp dân số đặc biệt hữu ích trong việc đánh giá các xu hướng trong tương lai. ➢➢➢ 48 Tháp dân số Nghệ An, 2009 – 2019 Phần trăm Phần trăm Nguồn: Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, 2019 Khi dân số trẻ chuyển sang khung tuổi trưởng thành (có nghĩa là di chuyển vào nhóm tuổi lao động), các chương trình phúc lợi xã hội sẽ còn đối mặt với nhiều áp lực hơn. Các vấn đề như thất nghiệp, thiếu lương thực và điều kiện sống thấp ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của tỉnh nhà. Trên thực tế, dân số ổn định thì phát triển kinh tế xã hội bền vững, đảm bảo chất lượng cuộc sống tốt cho cộng đồng. Dân số và Phát triển (DS&PT) tác động qua lại chặt chẽ với nhau. Bước tiến của lĩnh vực này thúc đẩy, tạo thuận lợi cho lĩnh vực kia. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đặt ra yêu cầu: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách dân số; thực hiện tốt Chiến lược Quốc gia Dân số và Sức khỏe sinh sản; đầu tư nâng cao chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người; bảo đảm tổng tỷ suất sinh thay thế, giảm dần sự mất cân bằng tỷ lệ giới tính khi sinh và đảm bảo quyền trẻ em. Nhờ có những chủ trương đúng đắn của Đảng, dân số nước ta đã đạt được bước phát triển đáng ghi nhận. Tuy nhiên, đánh giá khách quan, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII cũng đã chỉ rõ: Công tác Dân số và Phát triển vẫn còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng dân số. Mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể. Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã và đang ở mức nghiêm trọng. Chưa có giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số. Chỉ số phát triển con người Nghệ An (HDI) còn thấp; tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao; tuổi thọ bình quân tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp so với nhiều nước trên thế giới. Phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập. Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế. Như vậy có thể khẳng định Dân số được coi là yếu tố đầu tiên cấu thành nên một quốc gia và có vai trò trọng yếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Và mỗi chúng ta hôm nay, thật sự quan 0-4 5-9 10-14 15-19 20-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-59 60-64 65-69 70-74 75-79 80+ 0-4 5-9 10-14 15-19 20-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-59 60-64 65-69 70-74 75-79 80+ 8 6 4 2 0 0 2 4 6 8 Nam Nữ Năm 2009 8 6 4 2 0 0 2 4 6 8 Nam Nữ Năm 2019  49 ngại về các nguy cơ có thể xảy ra với tình trạng bùng nổ dân số mà thế giới phải đối mặt. Tuy nhiên đến thời điểm hiện nay, thay vì mối lo bùng nổ dân số, mối quan tâm của nhiều nước trên thế giới lại chính là tình trạng suy thoái. Các vấn đề xoay quanh sự suy thoái dân số thường tập trung vào tình trạng dân số già hóa, giảm tỷ lệ sinh, lựa chọn giới tính khi sinh, di cư, Điểm qua các nước ở đông dân đang phải đối mặt mới việc tăng Dân số để thấy bức tranh sáng tối từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng: Trung Quốc và Ấn Độ hiện chiếm 37% trong 7,7 tỷ dân trên toàn cầu, trong đó Trung Quốc có khoảng 1,4 tỷ người, còn Ấn Độ là 1,3 tỷ. Tuy nhiên, theo báo cáo Triển vọng Dân số Thế giới 2019 của Liên Hợp Quốc được công bố hôm 17/6/2019, đến năm 2027, Ấn Độ sẽ có đông dân hơn Trung Quốc và vào năm 2050, cụ thể Trung Quốc dự kiến giảm còn 1,1 tỷ người, trong khi dân số của Ấn Độ sẽ là 1,5 tỷ người. Đến năm 2050, báo cáo dự đoán dân số toàn cầu là 9,7 tỷ người, mức tăng đáng kinh ngạc chỉ trong một thế kỷ. 5 năm sau khi Liên Hợp Quốc thành lập vào năm 1950, dân số thế giới khi đó chỉ là 2,6 tỷ người. Tuy là nước đông dân nhưng Trung Quốc đang đối diện với tình trạng dân số ngày càng già đi sau nhiều năm siết chặt chính sách 1 con, qua đó là những hệ lụy về thiếu hụt lao động trẻ, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế đang ngày càng rõ ràng. Và một hệ lụy Chính phủ Trung Quốc đang ngày càng lo lắng là cuộc sống của người già ngày càng cô đơn trong xã hội hiện đại. Ấn Độ với dân số hơn 1,3 tỷ người, đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế rõ rệt trong những năm gần đây. Phát triển kinh tế và công nghiệp đã góp phần đưa sản lượng lương thực tăng gần gấp hai lần trong hai thập kỷ qua. Hiện quốc gia này là địa chỉ sản xuất lúa gạo lớn thứ hai, chỉ đứng sau Trung Quốc. Tuy nhiên, dù năng suất lúa gạo tăng cao nhưng tình trạng đói nghèo ở Ấn Độ vẫn bị xếp hạng ở mức “nghiêm trọng”. Trong Báo cáo An ninh lương thực thế giới năm 2017 của Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của LHQ (FAO), Ấn Độ có 190,7 triệu người suy dinh dưỡng, tương đương 14,5% dân số. Với tỷ lệ này, Ấn Độ là quốc gia có số người suy dinh dưỡng nhiều nhất trên thế giới. Ngoài ra, khoảng 51,4% số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (từ 15 đến 49 tuổi) bị thiếu máu, 38,4% số trẻ em dưới năm tuổi gầy yếu hoặc thấp còi. Trẻ bị suy dinh dưỡng có nguy cơ tử vong cao do các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi và sốt rét. Vì vậy, năm 2017, Ấn Độ được xếp hạng 100 trong số 119 quốc gia trong bảng đánh giá GHI (Chỉ số đói nghèo toàn cầu), tụt ba bậc so năm 2016. GHI được xây dựng dựa trên các chỉ số như tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ gầy yếu, thấp còi và tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới năm tuổi. Về bản chất, chỉ số đói nghèo chính là tiêu chí xếp loại về mức độ suy dinh dưỡng và thiếu dinh dưỡng trên tổng dân số của một quốc gia. Như vậy, trong một năm qua, tỷ lệ phụ nữ và trẻ em bị suy dinh dưỡng ở Ấn Độ không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng. Nghịch cảnh kinh tế phát triển nhưng dinh dưỡng kém đang đặt ra bài toán hóc búa đối với giới chức nước này. Sau Ấn Độ và Trung Quốc, báo cáo cho biết Nigeria sẽ là quốc gia đông dân thứ ba thế giới vào năm 2050 với khoảng 733 triệu người. Vị trí của Mỹ rơi xuống thứ tư với dân số 434 triệu người và quốc gia đông dân thứ 5 thế giới sẽ là Pakistan. Phần đa dân số tăng nhanh nhất ở các nước nghèo nhất, nơi tăng trưởng dân số đi kèm với những thách thức (nghèo đói, thất nghiệp,), nguy hiểm nhất của sự gia tăng dân số đó là nó gây sức ép nặng nề tới môi trường toàn cầu, gây biến đổi khí hậu thế ➢➢➢ 50 giới, hiệu ứng nhà kính. Quay trở lại với công tác dân số hiện nay của tỉnh nhà, từ đó xác định những điểm cần lưu tâm nhằm đưa ra những sáng kiến thiết thực cho Nghệ An, khi mà những hệ lụy của các nước trên thế giới đang hiện hữu rõ ràng, thì tỉnh nhà cần sáng suốt để có hướng đi phù hợp. Trong sự thuận lợi của công tác dân số trên địa bàn tỉnh năm 2019 như: công tác DS&PT tiếp tục nhận được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp mà cụ thể là Lãnh đạo tỉnh Nghệ An đã thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở và phối hợp tích cực của các ban, ngành, đoàn thể các cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Dân số tập trung triển khai và tổ chức thực hiện công tác DS&PT; Đội ngũ cán bộ làm công tác DS&PT các cấp, nhất là cơ sở đã được đào tạo đạt chuẩn viên chức dân số, chế độ chính sách, nhất là phụ cấp ưu đãi nghề được đảm bảo nên yên tâm, nhiệt tình và trách nhiệm với công việc; Đại bộ phận nhân dân ngày càng hiểu và tự nguyện hơn trong thực hiện chính sách DS&PT; thì khó khăn, thách thức của công tác DS&PT tỉnh nhà vẫn đang phải tiếp tục đối mặt đó là: quy mô dân số lớn, mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên vẫn còn cao (cao thứ 7 cả nước); cơ cấu dân số có sự chuyển biến lớn, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh còn cao; già hóa dân số; chất lượng dân số tuy được nâng lên nhưng vẫn còn thấp; Kinh phí chương trình mục tiêu y tế - dân số bị cắt giảm rất nhiều hoạt động, ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai thực hiện các hoạt động, nhất là ở cơ sở; Trước quan điểm, chủ trương chuyển trọng tâm từ DS- KHHGĐ sang dân số phát triển tại Nghị quyết số 21 của Ban chấp hành Trung ương, cộng với UBND tỉnh Nghệ An bổ sung, sửa đổi một số điều của Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 43, Nghị quyết 170/2015/NQ- HĐND ngày 10/7/2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh về quy định một số chính sách Dân số - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã có nhiều người dân, thậm chí cán bộ, đảng viên đã hiểu chưa đúng và truyền miệng về việc Đảng và Nhà nước không hạn chế sinh con thứ 3 trở lên. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách DS&PT tại cơ sở; Hiện nay Trung ương, Tỉnh đang có chủ trương kiện toàn, sắp xếp lại tổ chức bộ máy trong đó có ngành y tế, dân số, quá trình xây dựng Đề án sáp nhập Trung tâm DS-KHHGĐ vào Trung tâm Y tế tuyến huyện còn có nhiều ý kiến trái chiều từ cơ sở. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến ổn định tổ chức bộ máy và tâm tư nguyện vọng của đội ngũ cán bộ làm công tác DS&PT ở cơ sở. 2. Các giải pháp giảm mức tăng dân số và công tác dân số hiện nay Trên hiện trạng và bất cập nêu trên thì tỉnh Nghệ An cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: (1) Tỉnh nhà cần thực hiện quyết liệt hơn trong việc thực hiện quyết định số 11/2018/QĐ-UBND tỉnh Nghệ An ngày 13/02/2018 về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Quy định ban hành, kèm theo Quyết định số 43/2015/QĐ-UBND ngày 21/8/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An quy định một số chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Và giải pháp hiện tại của ngành Y tế Nghệ An là nỗ lực tuyên truyền mỗi gia đình sinh đủ hai con để duy trì mức sinh hợp lý mang lại lợi ích cho gia đình và xã hội. (2) Tuyên truyền và thực hiện hiệu quả quan điểm chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII trong Nghị quyết 21-NQ/TW về Công tác dân số trong tình hình mới: Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác Dân số và Phát triển là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết vừa lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Cụ thể tiếp tục  51 chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang "Dân số và Phát triển" (DS &PT). Theo đó, công tác dân số chú trọng toàn diện hơn các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. (3) Dưới những áp lực do tăng trưởng dân số, thì cải thiện năng suất lao động là điều kiện tiên quyết, tối quan trọng cần được tỉnh nhà đề ra phương án thực hiện. Theo đó, có thể đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế thông qua cải cách công nghệ và thực hiện chính sách đã được các nền kinh tế phát triển sử dụng, đơn cử là việc tận dụng tối đa sự phát triển và hỗ trợ của máy móc, robot... (4) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động cán bộ và nhân dân thực hiện chính sách DS & PT trong tình hình mới một cách có trách nhiệm. Tuyên truyền và tổ chức ký cam kết thực hiện chính sách DS & PT trong toàn dân, nhất là tại vùng biển, vùng đặc thù có mức sinh cao. (5) Thực hiện phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở trong việc tăng cường tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện nghiêm chính sách DS & PT của Đảng và Nhà nước. (6) Xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình trong thực hiện chính sách DS & PT. (7) Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông nhân dịp tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ của ngành như: Ngày Dân số Thế giới (11/7), Ngày Dân số Việt Nam (26/12), Tháng hành động quốc gia về Dân số và các ngày lễ lớn trong năm. Xây dựng kế hoạch cụ thể và triển khai các hoạt động sớm, kịp thời, có hiệu quả. (8) Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đồng thời thực hiện quản lý chuyên môn thống nhất. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cộng tác viên ở thôn, bản, tổ dân phố... Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ dân số các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu chuyển hướng sang chính sách Dân số và Phát triển. Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành nhằm tăng cường chỉ đạo, điều phối hoạt động của các ngành, cơ quan có chức năng quản lý các lĩnh vực liên quan tới dân số và phát triển (9) Chỉ đạo, hướng dẫn cơ sở tăng cường tham mưu đầu tư ngân sách địa phương đáp ứng yêu cầu triển khai toàn diện công tác dân số. Ưu tiên bố trí ngân sách cho các hoạt động vùng đặc thù, vùng giáo, vùng có mức sinh cao; Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí, tài sản; đảm bảo giải ngân kịp thời và đúng quy định của Luật ngân sách. Đảm bảo 100% kế toán các đơn vị làm công tác dân số sử dụng thành thạo phần mềm kế toán. (10) Tập trung thực hiện có hiệu quả Đề án “Xã hội hóa cung cấp phương tiện tránh thai và dịch vụ KHHGĐ/SKSS tại khu vực thành thị và nông thôn phát triển giai đoạn 2015 - 2020” trên địa bàn tỉnh Nghệ An, đây là giai đoạn cần nhất vì là thời điểm dịch bệnh COVID-19 đang quay trở lại, và việc cách ly xã hội đang được thực hiện ở từng địa bàn. Tài liệu tham khảo (1) Niên giám Cục Thống kê Nghệ An năm 2020. (2) Kết quả Tổng điều tra Dân số thời điểm 01/4/2009 và 01/4/2019. (3) https://vnexpress.net/an-do-sap-vuot- mat-trung-quoc-tro-thanh-quoc-gia-dong-dan- nhat-the-gioi-3941101.html