Giải pháp đổi mới đánh giá đạo đức học sinh phổ thông trong giai đoạn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam

Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản để giáo dục Việt Nam có thể đổi mới căn bản và toàn diên – trong đó, ngay từ nội dung định hướng thứ 3, Nghị quyết đã khẳng định phải “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo bảo đảm trung thực và khách quan” và mới đây Bộ Giáo dục và Đào tạo coi đây là khâu đột phá. Trong báo cáo này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ vấn đề “Giải pháp đổi mới đánh giá đạo đức của học sinh phổ thông trong giai đoạn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam”. Đây là vấn đề quan trọng quyết định việc giáo dục đào tạo có thực hiện được mục tiêu “phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp đổi mới đánh giá đạo đức học sinh phổ thông trong giai đoạn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 - Thaùng 11/2014 16 GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI ĐÁNH GIÁ ĐẠO ĐỨC HỌC SINH PHỔ THÔNG TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VIỆT NAM NGUYỄN TÙNG LÂM(*) TÓM TẮT Chúng tôi muốn nêu lên vấn đề đổi mới cách đánh giá đạo đức học sinh phổ thông hiện nay là một vấn đề cấp bách, chúng ta phải thay đổi tiêu chí đánh giá và cách đánh giá đạo đức học sinh phổ thông hiện nay mới phục vụ kịp thời cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thời kỳ hội nhập. Từ khóa: đổi mới cách đánh giá, đạo đức học sinh, chất lượng giáo dục ABSTRACT We would like to raise an issue concerning the way to assess the students’ ethics in general schools at present. Obviously, it is an urgent task that needs to alter the categories used as the norms, as well the manners to assess the students’ ethics in the general schools for the time being. By so doing, we are able to enhance the quality of education in the time of global integration. Keywords: innovate assessment, student ethics, educational quality. (*)Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản để giáo dục Việt Nam có thể đổi mới căn bản và toàn diên – trong đó, ngay từ nội dung định hướng thứ 3, Nghị quyết đã khẳng định phải “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo bảo đảm trung thực và khách quan” và mới đây Bộ Giáo dục và Đào tạo coi đây là khâu đột phá. Trong báo cáo này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ vấn đề “Giải pháp đổi mới đánh giá đạo đức của học sinh phổ thông trong giai đoạn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam”. Đây là vấn đề quan trọng quyết định việc giáo dục đào tạo có thực hiện được (*)TS, Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Hà Nội mục tiêu “phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”. 1. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC HỌC SINH PHỔ THÔNG HIỆN NAY Căn cứ vào những văn bản mới nhất, gần đây chỉ đạo công tác xếp loại đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức, học tập của học sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các nhà trường như: - Thông tư số 58/2011/TT – BGDĐT ngày 12/12/2011 về đánh giá xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT. - Thông tư số 32/2009/TT – BGDĐT ngày 27/10/2009 về “Quy định đánh giá xếp loại học sinh tiểu học. Chúng ta thử xem ý kiến của giáo viên, học sinh và phụ huynh về hướng dẫn đánh 17 giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo như thế nào? Mới đây nhất ngày 23/03/2014 trên mục “Chuyện đương thời” của VTV1 về đánh giá đạo đức học sinh đã thu nhận được các ý kiến của những người dân như sau: Câu 1: Theo bạn nếu đánh giá học sinh không đúng thì chuyện gì sẽ xẩy ra? - 21.5%: Học sinh sẽ mất động lực học tập. - 68.4%: Học sinh có phản ứng tiêu cực, không tốt cho việc trưởng thành. - 10.1%: Có ý kiến khác. Câu 2: Theo bạn những nhược điểm lớn nhất của việc đánh giá hạnh kiểm hiện nay là gì? - 83.3%: Nhược điểm lớn nhất là bó buộc học sinh trong khuân khổ, không cho học sinh thể hiện mình. - 16.7%: Có ý kiến khác. Câu 3: Theo bạn việc đánh giá hạnh kiểm như hiện nay trong nhà trường liệu có phù hợp không? - 88.9%: Không. - 11.1%: Có. Câu 4: Theo bạn Bộ Giáo dục và Đào tạo có nên bỏ hình thức đánh giá hạnh kiểm như hiện nay không? - 22.2%: Nên bỏ. - 72.2%: Không nên bỏ nhưng cần bổ sung và sửa đổi. - 5.6%: Không nên bỏ. Câu 5: Bạn có hiểu hạnh kiểm tốt, khá, TB, yếu kém không? - 77.8%: Không hiểu. - 22.2%: Có hiểu. Câu 6: Không hiểu hạnh kiểm tốt, khá, TB, yếu kém vì sao? - 52.9%: Hạnh kiểm là thứ không thể đánh giá theo tiêu chí tốt, khá, TB, yếu kém. - 38.3%: Quá mơ hồ và trừu tượng. - 8.8%: Ý kiến khác. Và từ năm 2009 khi trên trang điện tử giaovien.net nêu ý kiến của tác giả về những hạn chế của cách đánh giá đạo đức của học sinh phổ thông hiện nay đã nhận được sự đồng tình của nhiều giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh. Chúng tôi xin nêu cụ thể một vài ý kiến của giáo viên, học sinh:  “Tôi ra trường và làm công tác chủ nhiệm không nghỉ năm nào. Nhưng tôi rất băn khoăn về cách xếp loại hạnh kiểm. Ví dụ như: Hạnh kiểm HK 2 cũng là hạnh kiểm cả năm. Hàng năm, Sở GD-ĐT có tổ chức đoàn kiểm tra chéo hồ sơ thi tốt nghiệp, những thầy cô đi kiểm tra có những quan điểm riêng: tại sao học sinh xếp loại học lực yếu mà hạnh kiểm lại tốt? Đúng ra phải xếp loại khá! Riêng Tôi, có suy nghĩ: Một em nào đó luôn cố gắng hết sức mình để học, nhưng chỉ vì tiếp thu chậm, học yếu nên mới bị xếp loại học lực yếu. Thì em đó phải được xếp loại hạnh kiểm Tốt. Còn về học lực đã phải chịu xếp loại yếu rồi. Chẳng lẽ học lực đã xếp loại rồi mà hạnh kiểm cũng phải "bị ăn theo” học lực sao” ??? (Bạn Thạch Ngọc Chinh).  “Em là giáo viên trẻ, mới ra trường nên vẫn còn nhớ rất rõ thời học sinh của mình. Em cũng đồng ý là việc đánh giá hạnh kiểm không thể qua mấy chữ "tốt" hay "khá" mà phân loại được. Trong những năm em học từ xưa đến giờ, nhất là lúc học ở những trường "điểm", em thấy tất cả hạnh kiểm lúc nào cũng là tốt, tốt, chỉ có ai mắc chuyện gì tệ lắm mới xuống khá, và tệ nhất thì trung bình, và nó trở thành một vết đen trong cả quá trình phấn đấu. Tuổi trẻ luôn mắc sai lầm, và nhờ vậy mới có thể trưởng thành. Nhưng nếu chỉ vì một lần mắc sai lầm mà có thể làm hỏng cả tương lai học sinh, chẳng phải chúng ta chỉ đang khuyến khích những con búp bê 18 chỉ biết nằm nguyên chỗ được đặt vào sao? Bất cứ ai nhìn vào, chỉ cần thấy "khá", "trung bình", họ nào biết học sinh đó có tính cách gì, ưu khuyết ra sao, tâm sự, hoàn cảnh thế nào, chỉ thấy bị hạnh kiểm vậy tức là "có vấn đề". Học sinh được hạnh kiểm tốt có tốt thật không? Học sinh bị hạnh kiểm trung bình có phải là hư đốn đáng ghét không? Đánh giá cả một nhân cách con người, nhất là trong thời kì nhân cách ấy đang hình thành và phát triển mà chỉ qua mấy chữ hời hợt đó thì thật là bất công. Em nhớ câu chuyện nước ngoài về một cô giáo trẻ mới vào dạy lớp 4 và ấn tượng xấu về một học sinh trong lớp, nhưng sau đó, khi đọc học bạ của học sinh này những năm trước mới nhận ra là mình đã đánh giá sai lầm. Trong học bạ đó, các cô giáo trước ghi những điều như: "Em ấy là một học sinh ngoan ngoãn, đáng yêu, em thực sự là niềm vui cho bạn bè", rồi năm sau là "mẹ em mất, bố không có việc, em ấy phải chịu nhiều gánh nặng", rồi "em trầm lặng, ít chơi đùa, cởi mở".... Những lời nhận xét như vậy mới khiến cho mục "Nhận xét của giáo viên" trở nên có giá trị, vì nó ghi lại cả quá trình phát triển của học sinh, và giúp cho mọi người hình dung được một con người. Em thực sự mong một ngày nào đó, những quyển sổ học bạ của học sinh Việt Nam mình sẽ thực sự có giá trị như một bản ghi chép để người ta có thể tìm hiểu về cả quá trình phát triển của học sinh, chứ không phải chỉ là một thứ giấy tờ với mấy chữ "tốt", "khá" vô nghĩa”. (Bạn Vân) Những ý kiến thực tiễn trên đây có thể thấy vấn đề cấp bách hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo cần chỉ đạo sát hơn nữa mới thực hiện được những yêu cầu đổi mới của Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Phân tích trên cơ sở khoa học của khoa học Tâm lý giáo dục chúng ta cũng thấy những bất cập của cách xếp loại đạo đức của học sinh chỉ dựa trên các bậc: Tốt, khá, trung bình và yếu hay của tiểu học chỉ có “Đạt” và “chưa Đạt”. Sau mỗi học kỳ, mỗi năm học, chúng ta đều đánh giá học sinh cả hai mặt học lực và hạnh kiểm. Việc làm đó là cần thiết và quan trọng. Có vậy mới đánh giá được mức độ rèn luyện, phấn đấu của học sinh trong từng học kỳ, trong từng năm học. Song chúng tôi vẫn thấy băn khoăn một điều: Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh theo các mức: “Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu” có thể chấp nhận, cứ theo mức điểm học sinh đã đạt mà xếp loại. Nhưng hạnh kiểm của học sinh lâu nay chúng ta vẫn xếp theo thứ bậc: Tốt, Khá, Trung bình, Yếu, liệu có nên tiếp tục mãi như vậy hay không? Hiện nay trong nhà trường đều có 2 tình trạng: - Giáo viên chủ nhiệm thường hết sức thông cảm với học sinh, tuổi các em là tuổi mới lớn không thể có những đánh giá cứng nhắc trong học bạ, để ảnh hưởng phấn đấu lâu dài của học sinh. Do đó phần lớn các em đều được giáo viên chủ nhiệm xếp loại hạnh kiểm: tốt và khá, em nào quá đáng lắm mới bị trung bình. Đặc biệt những năm cuối cấp, để tạo điều kiện cho học sinh thi hết cấp được thuận lợi, việc xếp loại học sinh cũng được các giáo viên chủ nhiệm "nới tay". - Còn học sinh thì sao? Những học sinh ngoan, giỏi lúc nào cũng phải giữ cho mức hạnh kiểm của mình ở mức tốt. Từ đó khiến nhiều em phải thu mình, không dám bộc lộ những cá tính, những cách sống riêng, những suy nghĩ riêng sợ thầy cô, bạn bè đánh giá. Là những người làm giáo dục, 19 chúng tôi vẫn nghĩ, làm thế nào đây để khuyến khích các em sống thật, sống hết mình để sau này các em trở thành những người có bản lĩnh, chủ động, sáng tạo. Trong cuộc sống những vấp váp là bình thường; có vấp váp mới có trải nghiệm, mới tự rút ra những bài học trong cuộc sống. Những học sinh có cá tính, bộc lộ mạnh mẽ hoặc những học sinh sống trong gia đình có hoàn cảnh, thiếu đi những sự giáo dục tỉ mỉ, có hiệu quả thường bị cách xếp loại khô cứng theo mãi các em. Đặc biệt khi học sinh muốn chuyển trường, thay đổi môi trường để phấn đấu, các trường đều chỉ nhận học sinh có hạnh kiểm tốt; thế là xảy ra tình trạng học sinh yếu kém rèn luyện đạo đức cứ việc chuyển từ trường này sang trường khác nhưng hạnh kiểm vẫn được ghi khá, tốt (trường cũ muốn đẩy đi thì phải đánh giá tốt) như vậy học sinh chẳng được giáo dục giúp đỡ gì. Thay bằng sự giáo dục chỉ có một chữ "tốt", "khá" trong học bạ (Chưa kể cha mẹ học sinh muốn làm việc này còn phải mất “tiêu cực phí” - Thế là chúng ta lại nêu thêm tấm gương phản giáo dục. Đặc biệt trong học bạ, mục nhận xét của giáo viên chủ nhiệm lại không yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải ghi cụ thể nên phần lớn các học bạ giáo viên chủ nhiệm chỉ ghi một hai dòng chung chung: "chăm ngoan", "học khá", "có tiến bộ" hoặc ngược lại có giáo viên chủ nhiệm “Thật thà” học sinh có “lỗi to” “lỗi nhỏ” nào đều ghi vào học bạ tất cả khiến nhiều học sinh “khóc dở, mếu dở” vì những từ: “vô kỷ luật”, “vô lễ”, “Thiếu trung thực” rồi tỉ mỉ cả “hay nói leo”, “hay nói chuyện trong lớp” Đọc học bạ của học sinh chúng ta không thể biết mức độ rèn luyện phấn đấu về mặt hạnh kiểm của học sinh ở từng năm học như thế nào? Đánh giá nhằm ghi nhận một thực tế hay chủ yếu phải đạt mục tiêu nhằm khích lệ, định hướng để học sinh có thể hoàn thiện nhân cách? Như vậy các văn bản mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn về xếp loại đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức của học sinh phổ thông chúng ta đều thấy cách xếp loại đánh giá này đều không đạt các mục tiêu yêu cầu của Nghị quyết 29 của Trung ương Đảng khóa XI “Đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học, đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học, đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội”. Tóm lại những văn bản mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn về đánh giá đạo đức học sinh phổ thông đều chưa đạt được yêu cầu mục tiêu của đánh giá đạo đức học sinh theo khoa học giáo dục về đánh giá. Mục tiêu của đánh giá trong giáo dục: + Người học được khích lệ để hoàn thiện năng lực, phẩm chất, hoàn thiện nhân cách. + Người dạy, nhà quản lý đánh giá được sự thay đổi chuyển biến của người học, tìm ra những thiếu sót không phù hợp trong quy trình đào tạo để cải tiến. + Cơ sở đào tạo người sử dụng nhân lực biết điểm mạnh, yếu để tiếp tục đào tạo hoặc sử dụng người lao động vào những vị trí công việc thích hợp. 2. HỌC TẬP KINH NGHIỆM GIÁO DỤC CỦA CÁC NƯỚC TIÊN TIẾN a. Trước hết chúng ta hãy xem cách đánh giá kết quả giáo dục của học sinh tiểu học và THCS của Canađa 20 Trực tiếp đọc bản nhận xét của giáo viên chủ nhiệm của các học sinh Việt Nam học ở Canada mới đây, tôi thấy sau mỗi học kỳ (1 năm học có 3 học kỳ) cha mẹ học sinh đều nhận được 1 bản nhận xét 2 trang khổ A4 với 9 nội dung chủ yếu sau: 1. Kỹ năng làm việc độc lập. 2. Năng lực sáng tạo. 3. Mức độ hoàn thành các bài tập. 4. Năng lực sử dụng công nghệ thông tin. 5. Khả năng hợp tác với những người xung quanh. 6. Khả năng giải quyết những xung đột của cá nhân. 7. Mức độ tham gia các hoạt động tập thể của lớp. 8. Khả năng giải quyết vấn đề. 9. Khả năng biết đặt mục tiêu để hoàn thiện trong tương lai. Tất cả các mục trên, giáo viên chủ nhiệm đều nhận xét điểm mạnh, điểm tốt học sinh đã đạt được trong quá trình học tập, rèn luyện ở trường, nếu học sinh có hạn chế, có điểm yếu, các giáo viên có nhận xét đi kèm hết sức khéo léo, tế nhị để học sinh rút kinh nghiệm, cha mẹ phối hợp giáo dục. Phải chăng chúng ta có thể áp dụng những tiêu chí này cho học sinh Việt Nam khi đánh giá đạo đức học sinh phổ thông? Phải chăng giáo viên chủ nhiệm có vất vả hơn một chút nhưng chúng ta sẽ được cả những thế hệ học sinh sớm hoàn thiện nhân cách, phẩm chất, năng lực của mình. b. Và mới đây nhất, Bộ Giáo dục của Singapore đã hướng dẫn các nhà trường Singapore chuẩn bị cho học sinh đáp ứng yêu cầu của công dân thế kỷ 21 (sơ đồ) Như vậy theo các nhà giáo dục Singapore, những phẩm chất và kỹ năng của học sinh cần hướng đến và cũng là đầu ra để đo kết quả giáo dục công dân thế kỷ 21 của họ là: (1) Họ xác định 5 giá trị cốt lõi mỗi học sinh phải có (vòng tròn trong cùng) - Tự nhận thức (bản thân). - Tự quản lý (bản thân). - Tự nhận thức xã hội. - Quản lý mối quan hệ xã hội. - Có trách nhiệm khi ra các quyết định. (2) Kết quả mong muốn 4 năng lực của phẩm chất của người công dân Singapore ở thế kỷ 21 (vòng ngoài cùng). a. Là người tự tin - Có ý thức mạnh mẽ về đúng sai. - Có khả năng thích ứng, linh hoạt. - Biết mình, biết người trong đánh giá. - Độc lập trong suy nghĩ phê phán. - Giao tiếp hiệu quả. b. Là người biết tự học có định hướng - Người tự đặt câu hỏi. - Tự phát hiện. - Tự kiểm tra và chịu trách nhiệm cho việc học tập của mình. 21 c. Là người có đóng góp tích cực - Có thể làm việc hiệu quả trong nhóm. - Sáng tạo, có nhiều sáng kiến. - Có tính toán rủi ro. - Có ý thức phấn đấu xuất sắc. d. Là người công dân có trách nhiệm - Có ý thức mạnh mẽ về trách nhiệm công dân singapore. - Có ý thức về đổi mới singapore và thế giới. - Tham gia cải thiện cuộc sống của những người xung quanh. 3 kỹ năng cần thiết thế kỷ 21 (vòng tròn giữa) - Kỹ năng đọc viết, nhận thức toàn cầu và kỹ năng giao lưu văn hóa. - Kỹ năng tư duy phê phán, sáng tạo. - Kỹ năng thông tin và truyền thông. Chúng tôi nêu kinh nghiệm của Canada và Singapore để chúng ta tham khảo và vươn tới thực hiện yêu cầu của Nghị quyết 29 của Trung ương là "Đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận". 3. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÁCH ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI CĂN BẢN TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY Từ những thực tế trên đây, chúng tôi kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo nên có hướng dẫn quy định lại việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm của học sinh phổ thông theo tinh thần: Thứ nhất: Giáo viên chủ nhiệm nên ghi lại trung thực những mặt cố gắng cũng như một số mặt rèn luyện chưa tốt của học sinh theo theo một số yêu cầu nhất định. Có thể tham khảo 5 nội dung chủ yếu sau: 1. Rèn luyện phẩm chất đạo đức: Giáo viên chủ nhiệm ghi rõ những phẩm chất nổi trội của học sinh như: trung thực, lễ độ, giản dị, khiêm tốn, khoan dung, nhân ái...hoặc cách ứng xử, giao tiếp với bạn bè, thầy cô. Hoặc dựa vào 4 phẩm chất, năng lực của học sinh Singapore để tham khảo. 2. Ý thức phấn đấu rèn luyện trong học tập: Giáo viên chủ nhiệm nhận xét: mức độ chuyên cần, ý thức chủ động tự giác, biết tự học có định hướng sáng tạo, tích cực vượt khó trong học tập? Có hoài bão ước mơ trong học tập ? 3. Ý thức tôn trọng nội quy kỷ luật của nhà trường, pháp luật nhà nước Giáo viên chủ nhiệm nhận xét: Về mức độ tôn trọng nội quy kỷ luật của lớp, trường; tôn trọng luật lệ giao thông; ứng xử có văn hóa nơi công cộng; tôn trọng giữ gìn tài sản của lớp, trường, nơi công cộng... 4. Ý thức rèn luyện thân thể, bảo vệ môi trường Giáo viên chủ nhiệm nhận xét: Về việc rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh môi trường... 5. Ý thức tham gia hoạt động tập thể, xây dựng tập thể Giáo viên chủ nhiệm nhận xét: Học sinh có tích cực tham gia các hoạt động của Đoàn, đội, của trường lớp; tinh thần đoàn kết đấu tranh xây dựng tập thể tổ, lớp, tinh thần hợp tác, giúp đỡ bạn bè... Năm nội dung trên đây là 5 mục được ghi sẵn trong học bạ để bắt buộc giáo viên chủ nhiệm phải ghi tỉ mỉ từng học sinh đã phấn đấu đạt được những mặt chủ yếu nào, tốt những mặt nào còn yếu, sẽ có lời khuyên để học sinh rút kinh nghiệm cần rèn luyện tốt hơn hoặc có những lời khen để khẳng định, động viên, chỉ ra những 22 hướng phấn đấu tiếp theo. Thứ hai: Chỉ dừng lại tối thiểu 5 nội dung trên, nhất thiết không xếp loại tổng quát theo thang điểm: Tốt, Khá, Trung bình, Yếu. Chỉ ghi những mặt học sinh nổi trội được khen ngợi ở lớp hoặc trường. Còn những học sinh nào thiếu ý thức rèn luyện, giúp đỡ nhiều lần không chuyển biến sẽ phải ghi "Cần phải rèn luyện về mặt đạo đức trong hè" (Bằng một thông báo khác của nhà trường cho gia đình và học sinh, không ghi trong học bạ). Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải thay lại quyển học bạ của học sinh hiện nay bằng một hồ sơ phát triển cá nhân toàn diện để ghi lại sự tiến bộ của mỗi học sinh trong việc phát triển năng lực như học sinh Singapore. Những học sinh nào sẽ bị lưu ban hoặc không được thi tốt nghiệp cũng được ghi rõ ràng lý do. Chúng tôi rất mong Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo đổi mới cách đánh giá về rèn luyện đạo đức của học sinh thế nào để các em được sống hồn nhiên, không bị ràng buộc, không trở thành những người "cơ hội", thiếu bản lĩnh, thiếu cá tính. Phải chăng làm được điều này chúng ta sẽ góp phần làm nên chất lượng thật trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực và góp phần "chống bệnh thành tích của ngành giáo dục đào tạo". Thứ ba: Những nội dung giáo viên trước khi nhận xét phải để học sinh tự nhận xét và tự đánh giá. Những tự đánh giá của học sinh, của cha mẹ học sinh cũng phải được lưu học bạ, chứ không phải chỉ có nhận xét 1 chiều của giáo viên. Đặc biệt cuối năm phải để thời gian cho giáo viên chủ nhiệm hoàn thành học bạ và giáo viên chủ nhiệm phải được hưởng một mức lương xứng đáng cho những người có khả năng giáo dục học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải là một danh hiệu được nhà trường tín nhiệm và có mức lương bồi dưỡng thỏa đáng. Không chỉ trừ giờ như hiện nay. Từ những băn khoăn của những nhà làm công tác giáo dục, cũng như ý kiến thực tế trăn trở của giáo viên, học sinh và kinh nghiệm thực tế của nước ngoài, chúng tôi muốn nêu lên vấn đề đổi mới cách đánh giá đạo đức học sinh phổ thông hiện nay là một vấn đề cấp bách chúng ta cần phải thay đổi tiêu chí đánh giá và cách đánh giá đạo đức học sinh phổ thông hiện nay mới phục vụ kịp thời cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thời kỳ hội nhập. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục Singapore 2. Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đản
Tài liệu liên quan