Giai thoại – Đặc điểm và bản chất thể loại

1.1. Quan niệm của các nhà nghiên cứu thế giới Do giới hạn về mặt tư liệu, chúng tôi xin được phép dừng lại ở một số quan niệm của các nhà nghiên cứu folklore Nga, một trong những nền học thuật ảnh hưởng rõ rệt nhất đến folklore Việt Nam. V. Ja Propp có lẽ là người đầu tiên chú ý đến thể loại giai thoại cùng đặc điểm của nó. Trong công trình Folklore và thực tại, ở phần Cơ cấu thành phần thể loại, khi bàn về cổ tích sinh hoạt, học giả uyên bác người Nga xem giai thoại như một tiểu loại của cổ tích sinh hoạt: “Nói về cổ tích sinh hoạt hay truyện cổ tích hiện thực, cần phải đề cập tới vấn đề giai thoại ( ). Theo ý chúng tôi, nó không phải là một loại hình riêng của sáng tác dân gian, khác biệt với loại truyện cổ tích đoản thiên về con người ( ). Nghiên cứu kĩ càng hơn nữa những truyện cổ tích sinh hoạt về con người, thì có thể khẳng định được rằng trong folklore không có ranh giới giữa truyện cổ tích sinh85 hoạt về con người và truyện giai thoại. Có chăng thì cũng chỉ có thể xếp giai thoại thành một tiểu loại riêng trong truyện cổ tích sinh hoạt” [9, tr.325]. Cùng quan điểm với V. Ja Propp, Guxep cũng xem giai thoại như một thể loại văn học dân gian, nhưng ông tách hẳn nó ra khỏi cổ tích sinh hoạt và đ nh nghĩa như sau: “Chúng tôi tách giai thoại ra khỏi cổ tích sinh hoạt và cổ tích trào phúng (loại này dĩ nhiên có thể mang những yếu tố giai thoại), vì nó có một số đặc điểm cho phép nó như một thể loại độc lập. Chúng tôi gọi là giai thoại tác phẩm tự sự trào phúng hoặc hài hước, được xây dựng trên một tình tiết có sự tăng tiến đến điểm cao, biểu hiện rệt và kết thúc bất ngờ” [2, tr.233]. Như vậy, nguyên nhân khiến Guxep tách giai thoại ra khỏi cổ tích là tính trào phúng và hài hước của nó. Soi chiếu đ nh nghĩa ấy vào tình hình giai thoại Việt Nam, có thể thấy, tác giả thiên về giai thoại trào phúng, hài hước với tính cách tiểu loại hơn là bản thân thể loại giai thoại trong hình hài của một thể loại độc lập.

pdf11 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giai thoại – Đặc điểm và bản chất thể loại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014 84 GIAI THOẠI – ĐẶC ĐIỂM VÀ BẢN CHẤT THỂ LOẠI NGUYỄN VĂN THƯƠNG (*) TÓM TẮT Giai thoại là một thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng đến nay, hầu như các nhà nghiên cứu chưa có sự nhất trí cao về đặc điểm thể loại này. Bài viết này tập trung vào những giác độ cơ bản nhất về lí thuyết thể loại. Từ khoá: bản chất thể toại, tự sự dân gian, giai thoại ABSTRACT Anecdote is a kind of folk forms of narrative. Although there have been many studies, but until now, most researchers have not got consensus yet on the characteristics of this genre. This article focuses on the most basic aspects of category theory. Keywords: nature, genre, folk narratives, anecdotes Xung quanh vấn đề lí thuyết thể loại giai thoại, có thể hình dung một số khía cạnh cơ bản như khái niệm, phân loại, các bình diện thi pháp Những đặc điểm, khía cạnh ấy phần nào đã được bóc tách, tìm hiểu qua một số công trình nghiên cứu, sưu tầm về giai thoại. Ở đây, chúng tôi chỉ đi sâu vào các yếu tố cơ bản là khái niệm, phân loại thể loại. 1. GIAI THOẠI LÀ GÌ? * Khái niệm thể loại luôn là điều kiện tiên quyết cho việc nghiên cứu một cách hoàn chỉnh, hệ thống thi pháp thể loại. Tuy nhiên, trong khoa học, việc tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một thuật ngữ nào đó không phải là câu chuyện quá mới mẻ. Trường hợp thể loại giai thoại cũng nằm trong huống trạng tương tự. Xoay quanh khái niệm này, đã có rất nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau, từ các nhà nghiên cứu trong nước cho đến các nhà nghiên cứu trên thế giới. Để có sự hình (*) ThS, Trường THPT Phạm Văn Sáng, Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh. dung một cách bao quát, chúng tôi xin điểm qua một số ý kiến tiêu biểu nhất. 1.1. Quan niệm của các nhà nghiên cứu thế giới Do giới hạn về mặt tư liệu, chúng tôi xin được phép dừng lại ở một số quan niệm của các nhà nghiên cứu folklore Nga, một trong những nền học thuật ảnh hưởng rõ rệt nhất đến folklore Việt Nam. V. Ja Propp có lẽ là người đầu tiên chú ý đến thể loại giai thoại cùng đặc điểm của nó. Trong công trình Folklore và thực tại, ở phần Cơ cấu thành phần thể loại, khi bàn về cổ tích sinh hoạt, học giả uyên bác người Nga xem giai thoại như một tiểu loại của cổ tích sinh hoạt: “Nói về cổ tích sinh hoạt hay truyện cổ tích hiện thực, cần phải đề cập tới vấn đề giai thoại (). Theo ý chúng tôi, nó không phải là một loại hình riêng của sáng tác dân gian, khác biệt với loại truyện cổ tích đoản thiên về con người (). Nghiên cứu kĩ càng hơn nữa những truyện cổ tích sinh hoạt về con người, thì có thể khẳng định được rằng trong folklore không có ranh giới giữa truyện cổ tích sinh 85 hoạt về con người và truyện giai thoại. Có chăng thì cũng chỉ có thể xếp giai thoại thành một tiểu loại riêng trong truyện cổ tích sinh hoạt” [9, tr.325]. Cùng quan điểm với V. Ja Propp, Guxep cũng xem giai thoại như một thể loại văn học dân gian, nhưng ông tách hẳn nó ra khỏi cổ tích sinh hoạt và đ nh nghĩa như sau: “Chúng tôi tách giai thoại ra khỏi cổ tích sinh hoạt và cổ tích trào phúng (loại này dĩ nhiên có thể mang những yếu tố giai thoại), vì nó có một số đặc điểm cho phép nó như một thể loại độc lập. Chúng tôi gọi là giai thoại tác phẩm tự sự trào phúng hoặc hài hước, được xây dựng trên một tình tiết có sự tăng tiến đến điểm cao, biểu hiện rệt và kết thúc bất ngờ” [2, tr.233]. Như vậy, nguyên nhân khiến Guxep tách giai thoại ra khỏi cổ tích là tính trào phúng và hài hước của nó. Soi chiếu đ nh nghĩa ấy vào tình hình giai thoại Việt Nam, có thể thấy, tác giả thiên về giai thoại trào phúng, hài hước với tính cách tiểu loại hơn là bản thân thể loại giai thoại trong hình hài của một thể loại độc lập. Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu Nga khác cũng trình bày chính kiến về thể loại này. Nhìn chung, các ý kiến vẫn thiên về tính hài, trào phúng. Gipkop cho rằng: “Giai thoại là một truyện kể ngắn gọn và bất ngờ, là một sản phẩm chân chính của các nhà trào phúng” (Những giai thoại về Khotgia) [8, tr.16]. Davlevtop cũng khẳng định: “Cái gì đã tạo ra bản chất của giai thoại, của các hình thức quan trọng và phổ biến nhất? Cũng dễ quan niệm rằng bản chất đó dẫn đến sự biểu thị có tính hài hước của một cái mâu thuẫn duy nhất trong cuộc sống. Trong giai thoại, không có cái gì ngoài cái đó” (Sáng tác dân gian, một loại hình nghệ thuật) [8, tr.16]. Như vậy, dù có khác nhau về điểm này hay điểm khác, song các học giả vẫn xem giai thoại như một thể loại thuộc văn học dân gian. Propp căn cứ vào tính hiện thực, phản ánh những vấn đề có liên quan một cách gần gũi đến cuộc sống thường nhật của nhân dân và xem giai thoại như một tiểu loại của cổ tích sinh hoạt. Trong khi các nhà nghiên cứu khác như Guxep, Gipkop, Davlevtop xem giai thoại như một thể loại độc lập và đặc biêt chú ý ở tính chất trào phúng hay hài hước. Đó là những giềng mối cơ bản làm nảy sinh sự khác biệt trong quan niệm về thể loại này. Song, chúng tôi không nghĩ rằng lí thuyết thể loại hay hẹp hơn là phân loại folklore của dân tộc này sẽ đảm bảo được tính khả thi khi áp dụng cho môi trường folklore của dân tộc khác. Điều này cũng đã được Propp lưu ý khá rõ: “Cơ cấu thành phần thể loại được xác lập đối với folklore một dân tộc lại không thể máy móc đem áp dụng cho folklore một dân tộc khác” [9, tr.310]. Chỉ có nguyên tắc phân loại là phổ quát trong khi tư liệu phân loại vốn mang tính độc lập, là tài sản riêng của từng dân tộc. Do đó, những ý kiến trên, chỉ có thể hữu ích khi và chỉ khi đem soi sáng vào mảng giai thoại đảm bảo được tiêu chí trào phúng, tức giai thoại hài. Trong khi, theo quan niệm của các nhà nghiên cứu ở nước ta, đó chỉ là một bộ phận của giai thoại. Chúng ta có thể tìm được lời lí giải cho những khác biệt trên qua lăng kính văn hóa Đông – Tây. Nếu ở phương Tây, giai thoại là những mẩu chuyện thiên về trào phúng, hài hước để đề cao tư duy duy lí; thì ở phương Đông, nội hàm đó có thể mở rộng sang cả những câu chuyện hết sức nghiêm túc về các nhân vật nổi tiếng được khúc xạ qua tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ vô tận của cộng đồng – tức tư duy duy cảm. Đó không chỉ là những câu chuyện dí dỏm, vui 86 tươi mà còn là những câu chuyện đẹp. Do đó, giai thoại Việt Nam nói riêng và giai thoại phương Đông nói chung, ngoài tính hài còn mang cả tính nghiêm trang, cẩn trọng, hay thậm chí là những câu chuyện nhuốm màu bi ai. Nói như Vũ Ngọc Khánh, đối với người phương Đông, giai thoại “là cuốn sổ biên niên của cuộc sống, là người bạn thường xuyên của con người và của các sự kiện lịch sử xã hội” [8, 10]. 1.2. Quan niệm của các nhà nghiên cứu Việt Nam Như chúng đã biết, công trình sưu tầm có đề cập đến thuật ngữ giai thoại đầu tiên ở Việt Nam là Giai thoại văn học Việt Nam (4). Trong công trình này, ở phần mở đầu, tác giả Trần Thanh Mại cho rằng: “Thoại có nhiều nghĩa nhưng trong trường hợp chúng ta xét đây, thì thoại là một truyện kể ngắn gọn, nhẹ nhàng, nói chung chỉ gồm những sự việc diễn biến với một vài tình tiết đơn giản. Giai thoại là một truyện kể nhỏ mà hay, lí thú, có khả năng gây cười cho người nghe, người đọc một cảm giác vui thích thoải mái một cảm giác sảng khoái nhẹ nhàng” [4, tr.9]. Tác giả Lại Nguyên Ân cũng có cách hiểu tương tự. Trong công trình Từ điển Văn học (Nxb Thế giới phát hành năm 2004), ở mục giai thoại, tác giả đ nh nghĩa giai thoại như sau: “Một thể loại chuyện kể truyền miệng, lưu truyền chủ yếu trong giới nhà văn và lớp công chúng ưa thích thơ văn, nhất là những người có hiểu biết Hán học và văn chương chữ Hán. Thuật ngữ giai thoại được mượn từ Trung Hoa (thoại: truyện kể; giai: hay, đẹp, thú vị). Mỗi giai thoại là một truyện kể ngắn gọn, lí thú, xoay quanh những nhân vật có thực, thường là những danh nhân (). Tuy vậy giai thoại vẫn mang tính độc lập như một thể loại độc đáo; nó thuộc về văn chương bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là dạng thức tồn tại của các truyện kể dân gian” [10, tr.519]. Cách hiểu trên diễn giải theo lối chiết tự và chú ý đối tượng ở hai tính chất: tính ngắn gọn và tính lí thú. Ở đây, có vẻ không khó khăn trong việc xác đ nh mâu thuẫn trong cách nhìn nhận và lập luận. Khi khẳng đ nh “giai thoại là một thể loại chuyện kể truyền miệng”, “dạng thức tồn tại của các truyện kể dân gian”, tức là không thể không đồng ý rằng giai thoại thuộc văn học dân gian. Nhưng đến một chỗ khác, tác giả lại tự phản bác chính điều vừa xác nhận khi cho rằng: “Nó (tức giai thoại – NVT) thuộc về văn chương bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành văn”. Như vậy, về chất, ý kiến này vẫn chưa thể đi xa hơn điều mà Trần Thanh Mại đã từng khẳng đ nh. Sự khác biệt duy nhất, có lẽ nằm ở hình thức diễn đạt. Và một điểm nữa, khiến chúng ta cảm thấy băn khoăn, khi tác giả vẫn chưa thể chắc chắn rằng giai thoại thuộc lĩnh vực nào, bác học hay bình dân. Sau đây, là những ý kiến cho rằng giai thoại là một thể loại độc lập của văn học dân gian. Về khái niệm giai thoại, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh cho rằng: “Thuật ngữ này là dùng theo ngôn ngữ Trung Quốc, có nghĩa là câu chuyện đẹp. Câu chuyện - thoại - là một chuyện! Chuyện thì có chuyện dài, chuyện ngắn, chuyện giàu hoặc ít tình tiết lại và chủ yếu được kể bằng lời. Chúng ta đã quan niệm giai thoại là tương đương với thuật ngữ anecdote của phương Tây. Anecdote không phải là câu chuyện, mà là mẩu chuyện. Mẩu chuyện này bao giờ cũng ngắn, có khi rất ngắn”[8, tr.9 - 10]. Theo cách hiểu của Vũ Ngọc Khánh, rõ ràng, 87 không thể áp dụng thuật ngữ anecdote của phương Tây vào tình hình thể loại ở nước ta. Nói cách khác, không thể xem dung lượng như một tiêu chí xác đáng để xác đ nh thể loại. Gần đây nhất, công trình biên soạn công phu về thể loại giai thoại là quyển Giai thoại văn học Việt Nam (6) (Tập 11, Tổng tập văn học dân gian người Việt) do Kiều Thu Hoạch chủ biên. Ở phần Khải luận, tác giả đưa ra cách hiểu về thuật ngữ giai thoại như sau: “Giai thoại vốn là một thuật ngữ gốc Hán. Giai có nghĩa là hay, đẹp, thoại là câu chuyện kể. Như vậy giai thoại là câu chuyện kể hay, đẹp, mà lâu nay giới nghiên cứu vẫn coi thuật ngữ này tương đương với anecdote của phương Tây” [6, tr.23]. Tóm lại, cách hiểu thuật ngữ giai thoại trong giới nghiên cứu nước ta gần như tách thành hai nhánh đối lập. Trong khi các nhà nghiên cứu văn học dân gian (như Vũ Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,) đều cho rằng giai thoại là thể loại văn học dân gian; thì các nhà nghiên cứu không thuộc lĩnh vực folklore có nhận đ nh ngược lại. Phải chăng, nguyên nhân sâu xa nhất làm nới rộng thêm hố sâu ngăn cách giữa họ không nằm ở phương pháp nghiên cứu, tiếp cận vấn đề? Và trong cách hiểu xem giai thoại như một thể loại văn học dân gian, các ý kiến vẫn chưa có sự thống nhất cao ở một số đặc điểm thuộc về nội hàm thuật ngữ. Chẳng hạn như một số ý kiến xem giai thoại tương đương với thuật ngữ anecdote của phương Tây và xem sự ngắn gọn là đặc trưng tất yếu về hình thức. Trong khi đó, Vũ Ngọc Khánh căn cứ vào thực tế sinh hoạt folklore để phủ đ nh điều đó và đề ngh mở rộng nội hàm sang cả những giai thoại có dung lượng lớn. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, mặc dù còn chưa thống nhất ở một số điểm nhưng nhìn chung, giới nghiên cứu nước ta đều xem giai thoại như một thể loại độc lập của văn học dân gian. Tóm lại, theo cách hiểu trên tinh thần kế thừa những nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi quan niệm về giai thoại như sau: Giai thoại là một thể loại tự sự dân gian, là cầu nối giữa lịch sử và truyền thuyết; nội dung xoay quanh những vấn đề có liên quan đến các nhân vật nổi tiếng trong cộng đồng, chủ yếu dưới giác độ riêng tư, cá nhân; có hình thức đa phần ngắn gọn; sử dụng ít nhiều yếu tố hư cấu, tưởng tượng; ngôn ngữ giàu tính trí tuệ, uyên bác; phần lớn được chuyển tải bằng giọng điệu hóm hỉnh, hài hước. 2. ĐẶC ĐIỂM, BẢN CHẤT VÀ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI GIAI THOẠI 2.1. Đặc điểm và bản chất thể loại giai thoại Về đặc điểm giai thoại, Trần Thanh Mại cho rằng: giai thoại là “một loại văn chương bác học mà lại truyền miệng” [4, tr.9]. Như vậy, theo cách nhìn nhận của tác giả, giai thoại nói chung (hay giai thoại văn học nói riêng) là một thể loại văn học viết. Bởi lẽ: “Giai thoại văn học là một thể loại văn học truyền miệng, nhưng trừ một số cá biệt nói chung thì giai thoại văn học không thuộc phạm vi văn học dân gian” [22, tr.9]. Ở một chỗ khác, tác giả viết: “giai thoại văn học chủ yếu là truyện của những người có điều kiện biết đọc, biết viết, biết thưởng thức thơ văn chữ Hán và chữ Nôm” [15, tr.9]. Và như thế, có thể thấy rằng, yếu tố khiến tác giả quan tâm nằm ở lực lượng sáng tác và thưởng thức – những người có vốn kiến thức nhất đ nh về Hán Nôm và qua đó, tác giả cũng khước từ sự lưu ý ở dạng thức tồn tại của tác phẩm – phương thức truyền miệng – một đặc điểm thuộc 88 quyền năng của văn học dân gian. Trong lần tái bản công trình Giai thoại văn học Việt Nam, nhóm tác giả cũng khẳng đ nh: “Giai thoại văn học là một loại văn chương vừa có tính chất bác học lại vừa có tính chất truyền miệng mang trong cốt cách của nó nhiều nét dân tộc độc đáo đầy sức hấp dẫn” [5, tr.5]. Rõ ràng, khái niệm được nêu ra chưa hề phân đ nh một cách chính xác, giai thoại văn học (một tiểu loại của giai thoại) thuộc văn học bình dân hay bác học. Tính chất nước đôi này thể hiện khá rõ nét trong cách diễn giải vấn đề: “giai thoại văn học là một loại văn chương vừa có tính chất bác học lại vừa có tính chất truyền miệng”. Do đó, có thể nói dù thời gian xuất hiện có độ lùi so với lần xuất bản đầu tiên, nhưng về mặt lí luận thể loại, vẫn chưa thể khắc phục được sở đoản trong quan niệm về giai thoại của Trần Thanh Mại. Công trình nghiên cứu văn học dân gian đầu tiên có đề cập và xem giai thoại như một thể loại văn học dân gian là quyển Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam của Cao Huy Đỉnh. Trong công trình này, mặc dù chưa đưa ra khái niệm, cũng như nhận diện về thi pháp thể loại nhưng tác giả, trong một nhận xét ngắn gọn về nội dung, cũng đã gợi mở một số ý tưởng đáng chú ý: “Giai thoại thể hiện lòng tự hào dân tộc, và những nguyện vọng tự chủ của nhân dân. Giai cấp phong kiến càng suy tàn, hệ thống quan liêu càng cồng kềnh sa đọa, thì tính chất châm biếm, đả kích của giai thoại càng mạnh mẽ và nó sẽ lẫn lộn với truyện cười” [1, tr.55]. Cách đánh giá của Cao Huy Đỉnh có phần thiên về chức năng thể loại. Ở đây, sự quy đ nh về tính l ch sử đã mở ra một vùng giao thoa của hai thể loại (giai thoại và truyện cười) ở tính châm biếm, đả kích. Trong công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam, tác giả Vũ Ngọc Khánh không phủ nhận tính bác học của giai thoại văn học nhưng lại khẳng đ nh những giai thoại đậm chất văn chương bác học ấy không thể khước từ phong cách, thi pháp của văn học dân gian; tức là đặc trưng được dân gian hoá: “Nói giai thoại là văn chương truyền miệng mà lại bác học cũng chỉ là một cách nói Những câu thơ, câu đối ở đây có vẻ giàu chữ nghĩa, điển tích như ở văn chương bác học, song điều bắt buộc là phải vận dụng theo phong cách dân gian, lấy chất liệu và cả biện pháp quen thuộc của ca dao, câu đốtác phẩm văn học bác học được xem như tác phẩm dân gian và có thể sống trong quần chúng” [7, tr.13 – 14]. Sau công trình trên, Vũ Ngọc Khánh tiếp tục giới thiệu quyển Giai thoại folklore Việt Nam. Sách gồm 2 phần: lí luận thể loại và giới thiệu tiểu loại giai thoại folklore, một trong 3 tiểu loại của giai thoại theo quan niệm của tác giả. Nhìn chung, phần giới thuyết thể loại là sự phát triển những quan điểm đã được đưa ra ở công trình Kho tàng giai thoại Việt Nam trước đó. Tuy nhiên, tác giả cũng không quên đưa vào một số lưu ý then chốt về đặc điểm thể loại, xem như điểm nhấn quan trọng trong cách hình dung vấn đề thể loại. Sự khác nhau ấy, theo tác giả, giai thoại của nước ta, trong không ít trường hợp thiếu hẳn yếu tố k ch tính, một đặc trưng thi pháp bắt buộc phải có theo đ nh nghĩa của Guxep: “Chuyện mà không có chuyện, chỉ là những nhận xét tình hình. Nếu theo cách nghiên cứu lí luận của các nhà chuyên môn (nhất là phương Tây) rằng anecdote phải có tính kịch, có cao trào, có đỉnh điểm thì hoàn toàn ở đây không có” [8, tr.39]. Có lẽ, Vũ Ngọc Khánh không đồng tình lắm với quan niệm xem giai thoại tương đương với thuật ngữ anecdote. Theo tác giả, giai 89 thoại không nhất thiết phải là những mẩu chuyện kể ngắn gọn: “Tiếu lâm, truyện cười, dù là cười liên hoàn đi chăng nữa, thì cũng phải ngắn gọn, sinh động, còn với giai thoại thì dài ngắn không quan trọng” [8, tr.56]. Ở một chỗ khác, tác giả hiểu nội hàm thuật ngữ này khác hẳn với quan niệm thông lệ của phương Tây, xem giai thoại như những mẩu chuyện hài hước, trào phúng. Tác giả cho rằng, giai thoại không chỉ vui, hài mà còn dung chứa cả những cung bậc khác: “Rồi còn những câu chuyện buồn, buồn mà vẫn là giai thoại. Qua thực tế sưu tầm, tôi đã gặp nhiều câu thơ, câu đối, hoặc những mẫu chuyện xứng đáng là những câu chuyện đẹp, hay song lại không vui tí nào. Vì nó không vui nên không được xem là giai thoại ư? Nếu như vậy thì hoá ra bắt thực tế phải tuân theo lí luận” [8, tr.20], và “trong cái hay, cái đẹp có cả cái đúng, cái vui có cả vui buồn lẫn lộn” [8, tr.26]. Như vậy, theo quan niệm của Vũ Ngọc Khánh, cần lưu ý hai điểm khác biệt so với quan niệm của phương Tây. Thứ nhất, không thể căn cứ vào dung lượng để xác đ nh thể loại; và thứ hai, giai thoại có thể dung chứa nhiều cung bậc tình cảm (bi, hài). Trong khi đó, tác giả Kiều Thu Hoạch nhấn mạnh đến tính lí thú và xem đây như một đặc trưng của thể loại này: “giai thoại không phải là câu chuyện, mẩu chuyện kể bình thường, mà đó phải là những câu chuyện hay, lí thú, gợi được những khoái cảm thẩm mĩ” [6, tr.23]. Xét về mặt l ch sử, nhận đ nh này có phần gần với quan niệm của Trần Thanh Mại: “Có lẽ ngắn gọn và lí thú là hai đặc điểm chủ yếu của giai thoại” [4, tr.9]. Cũng trong phần khải luận công trình Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu Hoạch có ý đồng tình với quan điểm của Vũ Ngọc Khánh khi xem giai thoại như một thể loại không thể chối bỏ, thuộc thẩm quyền của văn học dân gian. Tác giả cũng đã tiến hành so sánh nhiều nguồn tài liệu khác nhau và tiến đến sự khẳng đ nh theo quan điểm nghiên cứu của folklore hiện đại: “Với cách nhìn nhận như vậy thì giai thoại rõ ràng là các sáng tác dân gian, là folklore, và đương nhiên nó phải là một thể loại nằm trong loại hình tự sự dân gian” [6, tr.29]. Chúng tôi nhận thấy, quan niệm của Kiều Thu Hoạch ch u ảnh hưởng ít nhiều từ cách hiểu của Guxep. Trong rất nhiều trường hợp, tác giả đã dẫn ra quan niệm của học giả người Nga và xem nó như kim chỉ nam cho cách hiểu của mình. Không ít lần, tác giả đề cập đến yếu tố tính lí thú hay kịch tính, một đặc điểm theo tác giả, không thể vắng bóng trong thể loại: “Một giai thoại, sở dĩ được gọi là giai thoại là do tính lí thú (intéressant, plaisant) tạo nên (), một giai thoại mà không đem lại cho người ta cái cảm giác lí thú thì không còn là giai thoại (). Điều mà Guxep gọi là tình tiết có sự tăng tiến tới cao điểm, và kết thúc bất ngờ, chính là nói đến tình huống lí thú của giai thoại. Hay nói khác đi, đó chính là kịch tính, dẫn câu chuyện tới chỗ thắt bút rồi bất ngờ mở nút, dẫn người nghe đến một khoái cảm thẩm mĩ cao độ, đầy hứng thú” [6, tr.31]. Ở một chỗ khác, tác giả cũng lưu ý