Giảng dạy thuật ngữ khoa học tiếng Việt cho lưu học sinh Lào

Số lượng sinh viên nước ngoài, đặc biệt từ các nước trong khu vực Đông Nam Á đến Việt Nam học tiếng Việt và chuyên ngành ngày càng đông. Đây là hướng mới trong dạy học Việt ngữ - với tư cách là một ngoại ngữ với đối tượng người học và mục tiêu đào tạo hết sức đặc thù. Bài viết đề cập đến thực trạng lưu học sinh (LHS) Lào học tiếng Việt, những khó khăn thách thức và lý giải nguyên nhân từ hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt; từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể để nâng cao việc giảng dạy thuật ngữ khoa học tiếng Việt cho LHS Lào.

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 127 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảng dạy thuật ngữ khoa học tiếng Việt cho lưu học sinh Lào, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 501 GIẢNG DẠY THUẬT NGỮ KHOA HỌC TIẾNG VIỆT CHO LƯU HỌC SINH LÀO Đ! Thùy Trang Trường Đại học Quảng Bình Tóm t t: Số lượng sinh viên nước ngoài, đặc biệt từ các nước trong khu vực Đông Nam Á đến Việt Nam học tiếng Việt và chuyên ngành ngày càng đông. Đây là hướng mới trong dạy học Việt ngữ - với tư cách là một ngoại ngữ với đối tượng người học và mục tiêu đào tạo hết sức đặc thù. Bài viết đề cập đến thực trạng lưu học sinh (LHS) Lào học tiếng Việt, những khó khăn thách thức và lý giải nguyên nhân từ hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt; từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể để nâng cao việc giảng dạy thuật ngữ khoa học tiếng Việt cho LHS Lào. Abstract: Scientific terminologies play an important position in thevocabularyofa language. It is the key for learners to accessspecializedknowledge. The paper analyzes some difficulties that Lao students encounter when they study inVietnam’s universities so as to find out objective and subjective reasons for this reality. The author also suggests some solutions to improve the quality of teaching and learning Vietnamese scientific terminologies for Lao students in Vietnam. 1. Đặt vấn đề Cùng với việc thiết lập hành lang kinh tế Đông Tây, sự gia tăng hợp tác chính trị, văn hóa và thương mại, sinh viên các tỉnh miền Trung Lào như Savanakhet, Khăm Muộn, các tỉnh vùng Đông Bắc Thái Lan Khon Kaen, Mukdahan đến các trường đại học ở miền Trung Việt Nam như Đại học Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Huế, Đà Nẵng ngày càng đông, trong đó chiếm số lượng lớn là lưu học sinh (LHS) Lào. LHS sau khi học dự bị tiếng Việt, phần lớn có nhu cầu học đại học, sau đại học ở Việt Nam. Vì những điểm tương đồng và gần gũi trong loại hình ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý,sau một năm học chương trình dự bị Tiếng Việt và sống chung trong môi trường giao tiếp với người bản ngữ, LHS nhanh chóng nói được tương đối thành thạo tiếng Việt. Thậm chí có một số học viên có khả năng dùng từ láy, thành ngữ, quán ngữ phổ biến của tiếng Việt, hiểu được tiếng lóng, các hàm ngôn trong giao tiếp hằng ngày. Tuy nhiên khi bắt đầu học đại học, thậm chí sau đại học, LHS gặp phải vấn đề khó khăn là hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Chúng là rào cản lớn, ảnh hưởng đến chất lượng học tập của LHS khi học ở Việt Nam. Đây là thực trạng kéo dài nhiều năm, đối với nhiều khóa LHS mà chúng tôi có điều kiện tiếp xúc, giảng dạy. Không giải quyết được thực trạng này thì việc học đại học và sau đại học ở Việt Nam của LHS khó đạt chất lượng cao như mong đợi. Đây cũng chính là mối quan tâm thường trực của nhiều người trực tiếp giảng dạy ngôn ngữ cũng như chuyên ngành cho LHS. 2. Thực trạng và nguyên nhân Chúng tôi đã tiến hành khảo sát khoảng 300 LHS Lào để đánh giá năng lực tiếng Việt và vốn tiếng Việt khoa học thực tế của LHS. LHS được lựa chọn để khảo sát có trình độ từ tiếng Việt dự bị đến đại học chuyên ngành, sau đại học. Kết quả khảo sát cho thấy xét về năng lực tiếng Việt giao tiếp, các LHS có sự trưởng thành rõ nét từ năm học đầu tiên đến năm cuối cùng. Sau 4 năm học đại học ở Việt Nam, năng lực giao tiếp tiếng Việt đạt được mức độ hoàn thiện khoảng 5% (15/300), tương đối hoàn thiện 20% (60/300), trung bình khoảng 45% (135/300), chưa đạt khoảng 30% (90/300). Trong đó mức độ hoàn thiện là những LHS có khả năng sử dụng tiếng Việt nhuần nhuyễn, linh hoạt để thấu hiểu và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác thấu hiểu. Tuy nhiên theo tiêu chí của ngôn ngữ học xã hội [3, tr. 115], nhuần nhuyễn nghĩa là tư duy trực tiếp bằng ngôn ngữ hai, không cần thao tác dịch ra ngôn ngữ một thì hầu như không có LHS nào đạt được. Ngược lại mức độ chưa đạt đánh giá những LHS sử dụng tiếng Việt chưa thuần thục, chưa tự mình sử dụng tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai trong nói Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 502 năng lẫn đọc hiểu, viết lách. Tuy nhiên kết quả trên được đánh giá dựa vào tiêu chí tiếng Việt giao tiếp thông thường. Còn xét về tiêu chí khả năng hiểu và sử dụng thuật ngữ hầu thì như không có LHS nào đạt được mức độ hoàn thiện (0%). LHS tốt nhất cũng chỉ hiểu lờ mờ nội dung của một số thuật ngữ khoa học chung và khoa học chuyên ngành. Đặc biệt, LHS phải thực hiện một công đoạn là dịch ra tiếng mẹ đẻ (Lào) hoặc tiếng Thái mới có thể nhận biết một phần ý nghĩa của thuật ngữ. Nhưng điều này cho ra kết quả cũng hết sức mơ hồ, vì vốn khả năng am hiểu khái niệm, thuật ngữ bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của LHS cũng hạn chế nên sau khi đã dịch ra thuật ngữ khoa học tiếng Việt ra được một đơn vị ngôn ngữ tương đương trong tiếng mẹ đẻ LHS cũng khó hiểu hết nội hàm khái niệm đó. “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Chúng tôi đã thử làm một test để thử nghiệm con đường tiếp nhận thuật ngữ “vật chất” của Triết học Mác Lê-nin đối với LHS Lào. LHS được chọn để kiểm tra là những học viên đã có chứng chỉ Tiếng Việt dự bị, học xong năm thứ nhất đại học ở Việt Nam. Có hai nhóm với hai phương pháp xử lý thuật ngữ này. Một số thì tra từ điển cho ra một từ tương đương trong tiếng Lào. Một nhóm ít hơn tra từng từ một trong khái niệm như: phạm trù, thực tại khách quan, cảm giác, phản ánh, lệ thuộc. Sau đó lắp ghép lại để cung cấp một hiểu biết chung về thuật ngữ “vật chất” bằng tiếng Việt. Sau khi đối chiếu kết quả lại với nhau thì khó có một hình dung chung cho định nghĩa phổ biến nhất của Triết học Mác Lê-nin này. Từ khái niệm này kéo theo khái niệm khác, LHS học đại học ở Việt Nam trong sự mơ hồ về thuật ngữ khoa học. Kết quả là dù kỹ năng giao tiếp tiếng Việt tương đối thuần thục, việc học tập ở Việt Nam của LHS vẫn vô cùng khó khăn. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến thực trạng này. Trước hết, xuất phát từ bản chất của thuật ngữ khoa học và đặc điểm đặc thù của hệ thốngthuật ngữ tiếng Việt. “Thuật ngữ là một bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực nghiên cứu chuyên môn của con người” [2, tr. 270]. Là một lớp từ đặc biệt của ngôn ngữ, thuật ngữ có những đặc điểm đặc thù khu biệt với các lớp từ khác. Đặc điểm đầu tiên cần nói đến là tính chính xác. “Mọi từ trong ngôn ngữ đều có liên quan đến khái niệm nhưng thuật ngữ thường biểu hiện những khái niệm chính xác của một khoa học nào đó” [2, tr. 271]. Thuật ngữ không phải xuất hiện cá biệt, đơn nhất mà nó luôn nằm trong một hệ thống nhất định. Tính hệ thống là đặc điểm tiêu biểu thứ hai của thuật ngữ. Ngoài sự bị quy định bởi trường từ vựng như tất cả các từ khác trong ngôn ngữ thì thuật ngữ còn bị quy định chặt chẽ hơn bởi trường khái niệm. Đối với thuật ngữ, trường khái niệm có tính chất tất yếu hơn và cũng chỉ riêng có thuật ngữ mới bị quy định bởi yếu tố này. Mỗi lĩnh vực khoa học đều có một hệ thống các khái niệm chặt chẽ, hữu hạn, được thể hiện bằng hệ thống các thuật ngữ của mình. Như vậy, mỗi thuật ngữ đều chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống khái niệm, thuộc về một hệ thống thuật ngữ nhất định. Giá trị của mỗi thuật ngữ được xác định trong mối quan hệ với những thuật ngữ khác cùng trong hệ thống. Nếu tách thuật ngữ ra khỏi hệ thống thì nó không còn giá trị nữa. Một đặc điểm tiêu biểu nữa của thuật ngữ là tính quốc tế. Thuật ngữ là một bộ phận từ vựng đặc biệt biểu thị những khái niệm khoa học chung cho những người nói các thứ tiếng khác nhau. Vì vậy sự thống nhất của thuật ngữ là cần thiết và bổ ích. Nó tạo nên tính quốc tế của thuật ngữ: điện thoại, điện báo, điện tín, bưu điện, téléphon (Pháp), telephone (Anh), telephone (Đức), radio (Anh, Đức Pháp) Thuật ngữ tiếng Việt thường được phân thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất là các thuật ngữ vay mượn qua con đường Hán ngữ: tế bào, nguyên sinh, nhiễm sắc thể, di truyền, biến dị, Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 503 phân bào, miễn dịch, kháng thể, kháng nguyên (thuật ngữ Sinh học) [2, tr. 274]. Hệ thống những thuật ngữ này đã hình thành từ lâu trong tiếng Việt. Nhóm thứ hai là các thuật ngữ được vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn Âu, mà tiêu biểu là tiếng Pháp và tiếng Anh. Đây đang là xu hướng phổ biến của nhiều ngành hiện nay: menu, word, excel, power point, slide, copy, paste, cut, file, insert, tools, edit, view (công nghệ thông tin) Không những thuật ngữ tiếng Việt mượn trực tiếp từ tiếng Anh, Pháp, chúng còn có nguồn gốc trực tiếp từ tiếng Latinh, như tên gọi các loài, chủng sinh vật, tên các bệnh, các vi khuẩn, vi rút trong y học Vì vậy khi nói đến hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt cần phải nhắc đến tất cả kiểu thuật ngữ từ các nguồn gốc khác nhau này, vì thực sự thuật ngữ khoa học xuất phát từ lớp từ thuần Việt hết sức hiếm hoi. Chính những đặc điểm đặc trưng của lớp từ thuật ngữ khoa học là nhân tố khách quan quan trọng chi phối khả năng tiếp thu của người sử dụng không bản là người bản ngữ. Ngay chính cả đối với người bản ngữ, phải có một trình độ tri thức khoa họcnhất định mới có thể hiểu và sử dụng đúng lớp từ này. Vì vậy, khó khăn đối với LHS Lào khi học thuật ngữ khoa học tiếng Việt cũng là tất yếu. Một nguyên nhân khách quan khác tác động lớn đến quá trình học tập của LHS là đặc trưng kinh viện, hàn lâm của giáo dục đại học ở Việt Nam. Chương trình giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay đang rất nặng nề, đặc biệt đối với LHS Lào. Tốt nghiệp phổ thông ở Lào, LHS mới hoàn thành xong khóa học chỉ 10 năm với những kiến thức khái quát, giản đơn về khoa học. Đến Việt Nam, sau khóa học dự bị kéo dài từ 6-10 tháng, LHS phải học trên 100 tín chỉ mỗi năm hai học kỳ, với đầy đủ, đa dạng, phức tạp các nội dung từ đại cương đến chuyên ngành. Có thể tưởng tượng số lượng thuật ngữ đa ngành tỷ lệ thuận với thời lượng trên 100 tín chỉ mà LHS phải tiếp thu và xử lý khổng lồ như thế nào. Đồng thời, giáo dục đại học ở Việt Nam chưa có những chương trình đào tạo chuyên biệt cho LHS, những môn có tính chất đại cương như Khoa học Mác Lê-nin, Pháp luật, Xã hội học, Văn hóa học LHS phải học chung với sinh viên bản ngữ. Cho nên xét từ góc độ thuật ngữ, có thể nói việc học đại học còn khó hơn sau đại học, nơi mà học viên chỉ cần tập trung chuyên sâu vào lĩnh vực nghiên cứu của mình, làm quen với một hệ thống thuật ngữ cô đọng, tập trung, có định hướng. Trong khi đó, tài liệu tham khảo chuyên ngành, đặc biệt là từ điển đối chiếu thuật ngữ chuyên ngành Việt Lào, Lào Việt, Việt Thái, Thái Việt hầu như không có. LHS chỉ sử dụng những quyển từ điển phổ thông, đơn giản, do phía Lào xuất bản, hoàn toàn vắng bóng mảng từ điển đối chiếu hệ thống thuật ngữ khoa học. Để tìm một phần mềm từ điển tiếng Anh-Việt, Pháp-Việt, Nhật-Việt, đều không khó nhưng phần mềm từ điển tiếng Lào-Việt hiện nay chỉ có duy nhất phần mềm từ điển Việt-Lào (Lào-Việt) do bác sĩ Trần Kim Lân, một Việt kiều đang sinh sống tại Lào viết. Từ điển Việt-Lào, Lào-Việt gồm 50.000 từ của tác giả được nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam xuất bản năm 2009. Các cuốn từ điển Việt-Lào, Lào-Việt do Bộ GD-ĐT Việt Nam và Bộ GD-ĐT Lào hợp tác xuất bản hầu như không tìm thấy trên thị trường sách thông dụng. Đây cũng là một nguyên nhân khách quan khác tác động đến cơ sở, điều kiện học tập, nghiên cứu của LHS Lào ở Việt Nam. Chương trình đào tạo tiếng Việt dự bị ở Việt Nam chủ yếu trang bị kiến thức tiếng Việt giao tiếp chung, khiếm khuyết mảng đào tạo tiếng Việt chuyên ngành, đặc biệt ở các trường đại học vùng và đại học địa phương. Môn Tiếng Việt chuyên ngành chủ yếu do giảng viên tiếng Việt đảm nhiệm. Điều này chỉ có thể giải quyết được vốn từ vựng chuyên ngành khái quát như chính trị, văn hóa xã hội, chứ không thể đi sâu dạy chuyên ngành như tiếng Việt kinh tế, sinh học, vật lý cho lưu học sinh. Sao khi vào học chuyên ngành, môn ngoại ngữ chuyên ngành LHS Lào lại học chung với sinh viên Việt Nam nên sẽ được lựa chọn là tiếng Anh hoặc Pháp chuyên ngành. Vốn tri thức thuật ngữ khoa học tiếng Việt của LHS vì thế không có điều kiện để được củng cố, trau đồi và hoàn thiện. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan nêu trên thì nguyên nhân chủ quan xuất phát từ bản Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 504 thân LHS cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tiếp thu vốn thuật ngữ khoa học tiếng Việt. LHS Lào đầu vào còn thấp, chưa đồng đều, chỉ học phổ thông 10 năm nên tri thức khoa học nói chung còn hạn chế, tính thụ động, ỷ lại cao, chưa thực sự chủ động học tập, nghiên cứu. Thực tế cho thấy trình độ ngoại ngữ, cụ thể là tiếng Anh của LHS Lào chưa thực sự tốt. Hầu hết LHS Lào không có khả năng sử dụng tiếng Anh như một công cụ hỗ trợ trong quá trình học tập. Chỉ có 5/300 LHS Lào có thể nói, hiểu được tiếng Anh ở mức độ trung bình. Cho nên vai trò trung gian về thuật ngữ giữa Việt – Anh – Lào (Thái) không được tận dụng tốt. Nếu LHS có khả năng Anh ngữ tốt, hoàn toàn có thể dùng từ điển thuật ngữ chuyên ngành thông qua vai trò trung gian là tiếng Anh. Ví dụ có thể dùng từ điển Việt – Anh thương mại, từ điển Việt – Anh xã hội học để dịch thuật ngữ từ tiếng Việt sang tiếng Anh, rồi từ Anh hiểu sang tiếng Lào (Thái). Vì thế, vốn ngoại ngữ trung gian hạn chế cũng ảnh hưởng to lớn tới việc tiếp cận hệ thống thuật ngữ khoa học Việt ngữ của LHS Lào. 3. Đề xuất và giải pháp Những nguyên nhân khách quan và chủ quan trên đã tác động nhiều mặt đến việc dạy và học thuật ngữ khoa học của LHS Lào ở Việt Nam. Rất nhiều giảng viên nhận ra thực trạng này nhưng đành chấp nhận giải pháp xuê xoa, thể tất cho LHS để LHS có thể hoàn thành khóa học trên tinh thần “hữu nghị”. Hệ quả là chất lượng giáo dục đối với LHS chưa đạt như mục tiêu. Để khắc phục thực trạng này đòi hỏi phải có những giải pháp mang tính tổng thể đối và toàn diện, kịp thời. Thuật ngữ là chìa khóa dẫn vào cánh cửa các ngành khoa học, là điều kiện tiên quyết để LHS có thể hiểu được những vấn đề khoa học được đề cập đến trong mỗi học phần. Chỉ khi nào hiểu và sử dụng được thuật ngữ Việt ngữ thì LHS mới có thể theo kịp nhịp độ đại học ở Việt Nam. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu sắc hơn với các quốc gia khu vực Đông Nam Á, trong đó có nước Lào láng giềng. Nhất thiết cần phải có từ điển Việt Lào được biên soạn chỉnh chu, khoa học từ các nhà ngôn ngữ học để có thể thúc đẩy quá trình trao đổi ngôn ngữ, học thuật và văn hóa giữa hai quốc gia; đặc biệt là từ điển thuật ngữ các chuyên ngành hoặc nhóm chuyên ngành. Những quyển từ điển này phải được xuất bản và phát hành hướng đến đông đảo bạn đọc là LHS, giảng viên dạy tiếng Việt, giảng viên chuyên ngành, làm sao để những đối tượng thực sự cần có thể tìm mua được. Muốn đào tạo tiếng Việt cho LHS Lào thực sự có hiệu quả, cần xây dựng một đội ngũ giảng viên Việt ngữ học có ngoại ngữ là tiếng Lào, Thái. Tăng cường trao đổi, hợp tác, giao lưu đào tạo để giảng viên tiếp xúc, làm quen với các nền giáo dục, văn hóa xã hội lân cận trong khu vực, từ đó tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc điểm của LHS từng nước. Chính đội ngũ giảng viên này là cầu nối quan trọng để có thể khắc phục được thực trạng hiện nay. Chương trình đào tạo đại học cần có sự cân nhắc, điều chỉnh linh hoạt đối với đối tượng là LHS. Đặc biệt là các môn học có tính chất đại cương, nhập môn, cơ sở, cần biên soạn những chương trình phù hợp với LHS, chú trọng đến việc hình thành khái niệm, cung cấp thuật ngữ khoa học làm nền tảng tiếp cận các môn chuyên ngành. Tách bạch đào tạo các môn đại cương đối với LHS và sinh viên bản ngữ. Có thể lựa chọn ngoại ngữ chuyên ngành là Tiếng Việt dành riêng cho LHS Lào thay cho các môn Anh ngữ hay Pháp ngữ chuyên ngành. Thiết kế các học phần ngoại ngữ bắt buộc và tự chọn ở đại học là Tiếng Việt để hoàn thiện vốn tiếng Việt cho LHS. Phát huy hơn nữa vai trò của người học, trong đó có LHS Lào trong quá trình tiếp nhận kiến thức. Nếu giảng viên đại học chỉ dùng phương pháp thuyết trình là chủ đạo, người học chỉ thụ động nghe và ghi chép thì việc học tập của LHS càng trở nên khó khăn hơn. Nếu được giao công việc nghiên cứu độc lập hoặc giải quyết vấn đề theo nhóm, LHS sẽ chủ động chuẩn bị, làm bài luận, xử lý tình huống tốt hơn với một hệ thống thuật ngữ nhất định. Theo chúng tôi, đây là giải pháp cơ bản, có giá trị quyết định đối với việc nâng cao Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 505 chất lượng học tập cho LHS Lào. LHS Việt Nam ban đầu bước vào môi trường giáo dục các quốc gia khác, đặc biệt là phương Tây cũng gặp cú shock về thuật ngữ như thế này (dù cho LHS có thể có trình độ ngoại ngữ rất xuất sắc). Nhưng sự cởi mở và chủ động của nền giáo dục đại học phương Tây sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều cho LHS Việt Nam so với giáo dục Việt Nam đối với LHS Lào. Một nhân tố quan trọng là ý thức tự học, tự nghiên cứu của LHS. Giảng viên phải là những người thúc đẩy, tạo động lực cho LHS chủ động nắm bắt hệ thống thuật ngữ tùy theo từng giai đoạn nhận thức của mình. Học tập thuật ngữ là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên nhẫn, cần cù, nhẫn nại của LHS. Thuật ngữ này sẽ là nền tảng cho thuật ngữ khác. Vốn thuật ngữ sẽ được tích lũy dần dần cũng với sự tích lũy kiến thức khoa học. Nếu không kiên trì, LHS sẽ dễ dàng rơi vào trạng thái phó mặc vì quá ngưỡng tiếp nhận trước một số lượng thuật ngữ khổng lồ của nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau. Một khi LHS phó mặc, giảng viên dù cố ý hay không cũng phải buông lỏng, thả nổi, dạy học theo tinh thần “hữu nghị”. Quá trình đào tạo đại học đối với LHS vì vậy sẽ trở thành hình thức, không có chất lượng. Vì vậy, học thuật ngữ tiếng Việt là một quá trình học tập lâu dài của LHS để có thể học chuyên ngành hiệu quả. Góp phần vào quá trình này, phải kể đến vai trò của nhiều nhân tố, như giảng viên tiếng Việt, giảng viên đại học chuyên ngành, chương trình đào tạo dự bị tiếng Việt lẫn cơ cấu chương trình đại học, cơ sở tài liệu tham khảo ở Việt Nam. Và trên hết, đó là sự ý thức và nỗ lực của mỗi LHS để ngày càng thông thạo thuật ngữ, thực sự làm chủ “chìa khóa” mở cánh cửa tri thức ở đại học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Hữu Châu (2004), Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt, NXB ĐHSP. 2. Nguyễn Thiện Giáp (2002), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục. 3. Nguyễn Văn Khang (2012), Ngôn ngữ học xã hội, NXB Giáo dục Việt Nam. 4. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng. 5. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục.