Tóm tắt
Trường Đại học Văn hoá Hà Nội (tiền thân là Trường Lý luận và Nghiệp vụ) là cơ sở đào tạo đầu tiên
ở Việt Nam xây dựng được một tổ bộ môn đảm nhiệm việc bồi dưỡng lý luận mỹ học cho đội ngũ cán
bộ làm công tác văn hoá. Mỹ học cũng là một trong số ít bộ môn hình thành sớm nhất của Trường.
56 năm qua, các thế hệ giảng viên bộ môn đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp đào tạo cũng như quá
trình trưởng thành của khoa học non trẻ này ở nước ta.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảng dạy và nghiên cứu Mỹ học tại ngôi trường 60 năm tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số 27 - Tháng 3 - 2019
GIẢNG DẠY VÀ NGHIÊN CỨU MỸ HỌC
TẠI NGÔI TRƯỜNG 60 NĂM TUỔI
NGUYỄN HỒNG MAI
Tóm tắt
Trường Đại học Văn hoá Hà Nội (tiền thân là Trường Lý luận và Nghiệp vụ) là cơ sở đào tạo đầu tiên
ở Việt Nam xây dựng được một tổ bộ môn đảm nhiệm việc bồi dưỡng lý luận mỹ học cho đội ngũ cán
bộ làm công tác văn hoá. Mỹ học cũng là một trong số ít bộ môn hình thành sớm nhất của Trường.
56 năm qua, các thế hệ giảng viên bộ môn đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp đào tạo cũng như quá
trình trưởng thành của khoa học non trẻ này ở nước ta.
Từ khóa: Đại học Văn hóa Hà Nội, mỹ học
Abstract
Hanoi University of Culture (formerly the School of Theory and Professional Skills) is the first training
institution in Vietnam which could organize a unit in charge of improving aesthetic theory for cadres
working in the cultural field. Aesthetic was also one of the few earliest academic majors in the university.
In the past 56 years, generations of lecturers have contributed positively to the education cause as well
as the maturing process of this young science in our nation.
Key words: Hanoi University of Culture, aesthetic
1. Trong hệ thống các khoa học triết học,
mỹ học là một khoa học non trẻ. Mặc dù, một
vài vấn đề xoay quanh chủ đề “thẩm mỹ” đã
được bàn thảo ngay trong nền văn hoá cổ
đại - từ Đông sang Tây, từ Khổng Tử, Lão Tử
đến Palaông, Arixtốt, nhưng giới nghiên cứu
thống nhất quan điểm: đến giữa thế kỷ XVIII,
với công trình hai tập Aesthetik của nhà triết
học người Đức là Baumgacten, mỹ học mới
thực sự trở thành một khoa học độc lập. Ở Việt
Nam, việc giảng dạy và nghiên cứu mỹ học còn
muộn hơn, nó chỉ chính thức được vận hành
vào thập niên 60 của thế kỷ trước. Đáng chú ý,
dấu ấn hình thành khoa học này gắn liền với
sự ra đời của ngôi trường mang tên Lý luận và
Nghiệp vụ, Bộ Văn hoá - tiền thân của Trường
Đại học Văn hoá Hà Nội hiện nay.
Mỹ học là một trong số ít bộ môn lý luận
được xây dựng trong giai đoạn đầu thành lập
trường. Việc đổi tên Trường Cán bộ văn hoá
thành Trường Lý luận và Nghiệp vụ (1961) cho
thấy sự phát triển trong nhận thức của các cấp
lãnh đạo Bộ và Trường. Bên cạnh việc xúc tiến
thành lập các khoa chuyên ngành (mở đầu là
Khoa Thư viện với lớp Cao đẳng hệ bốn năm),
yêu cầu trang bị nền móng lý luận cơ bản cho
đội ngũ cán bộ văn hoá trở nên cấp bách, Thứ
trưởng Bộ Văn hoá Lê Liêm giao nhiệm vụ cho
Trường gấp rút xây dựng các bộ môn lý luận,
trước hết là triết học và mỹ học. Bộ Văn hoá
mời chuyên gia Liên Xô Iakovlép sang giảng
dạy khoá Nghiên cứu sinh Mỹ học đầu tiên
(từ 12/1962 đến 7/1963). Sau khoá tập huấn
này, tháng 8/1963 bộ môn Mỹ học chính thức
ra đời. Thời điểm ấy, đây là ngôi trường đầu
tiên ở nước ta có bộ môn Mỹ học. (Sau đó vài
năm, năm 1965, Khoa Ngữ văn Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội đưa một phần kiến thức mỹ
học vào giảng dạy. Đó là phần “Các phạm trù
mỹ học”, dựa trên cuốn sách cùng tên của tác
giả Bôrép, do GS. Hoàng Xuân Nhị dịch). Đội
ngũ cán bộ giảng dạy đầu tiên của bộ môn
được tập hợp từ nhiều nguồn: ngoài thầy Lê
Hồng Nam - nguyên là cán bộ tuyên huấn (Tổ
trưởng bộ môn), còn có nhà báo Vũ Lân và
một số cán bộ mới tốt nghiệp từ các trường
đại học trong và ngoài nước như: thầy Tạ Văn
39Số 27 - Tháng 3 - 2019
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm
thành lập Trường ĐHVHHN
Thành (Sử học), Nguyễn Văn Tước, tức Hoài
Lam (Báo chí), Phạm Đình Khánh (Nghệ thuật
học), Hà Huy Bính (Văn học)... Thế hệ các thầy
đã đặt nền móng cho công việc giảng dạy và
nghiên cứu mỹ học của nhà trường nói riêng
cũng như ở Việt Nam nói chung1. Tiếp theo, bộ
môn có thêm thế hệ giảng viên thứ hai tiếp tục
công việc từ những năm 70 cho đến những
năm đầu thế kỷ XXI, đó là các thầy cô: Nguyễn
Hồng Mai, Đặng Hồng Chương, Lê Như Tâm và
Vũ Thuý Minh. Hiện nay, công việc giảng dạy
mỹ học của trường do thế hệ thứ ba là TS. Vũ
Thanh Hoài đảm nhiệm với sự cộng tác của
TS. Đặng Hà Chi. Điểm chung của cả ba thế hệ
giảng viên là không có ai được đào tạo chính
quy đúng chuyên ngành Mỹ học, nhưng bằng
lòng đam mê đối với môn khoa học mới, bằng
quá trình lao động nghiêm túc, không ngừng
nỗ lực tự học và nghiên cứu, kiên trì rèn luyện
trong thực tiễn, họ đều đã hoàn thành tốt
công việc của mình, đóng góp đáng kể vào sự
nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá. Một
số người đã được Đảng và Nhà nước trao tặng
những danh hiệu cao quý2.
Trong gần sáu thập kỷ qua, các giảng viên
bộ môn đã giảng dạy, truyền bá kiến thức mỹ
học cho hàng vạn học viên, sinh viên thuộc tất
cả các chuyên ngành nghiệp vụ văn hoá, thuộc
các cấp học (bồi dưỡng, trung cấp, cao đẳng,
đại học và một số lớp cao học), thuộc mọi hệ
đào tạo (chính quy, chuyên tu, tại chức). Ngoài
ra, trong mấy thập niên đầu, khi lực lượng
giảng viên mỹ học còn rất mỏng, giảng viên
bộ môn đã tham gia giảng dạy nhiều đơn vị
đào tạo trong và ngoài ngành Văn hoá, không
chỉ ở Trung ương mà còn các trường trung cấp
địa phương. Trong các lớp học do Trường trực
tiếp tổ chức và quản lý, đáng chú ý có loại hình
lớp “Chuyên tu Triết Mỹ”. Học viên lớp này chỉ
học hai môn kết hợp với đi thực tế địa phương
và trao đổi nghệ thuật. Đối tượng chiêu sinh
của khoá học bao gồm cán bộ quản lý văn hoá
cấp vụ, viện, trưởng phó sở, ty văn hoá các tỉnh
và lực lượng văn nghệ sĩ (trong số đó có nhiều
nghệ sĩ nổi tiếng như ca sĩ Quốc Hương, các
diễn viên điện ảnh Phi Nga, Đức Hoàn, Đức
Lưu). Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh phá
hoại, trường đi sơ tán ở huyện Yên Dũng (Bắc
Giang), loại hình lớp này vẫn được duy trì đều
đặn. Ở giai đoạn ấy, chứng chỉ “Chuyên tu Triết
Mỹ” được coi như một văn bằng hành nghề
của nhóm đối tượng này. Sang đến đầu những
năm 80 của thế kỷ trước, Mỹ học là một trong
ba môn lý luận cốt lõi (cùng Triết học và Lý luận
văn hoá) được lãnh đạo Bộ đưa vào chương
trình thí điểm đào tạo Cao học Văn hoá (khoá
2 năm). Cùng thời gian ấy, Bộ Đại học và Trung
học chuyên nghiệp cũng chọn Mỹ học là một
trong các môn tuyển thí sinh đi học Nghiên
cứu sinh các ngành Văn hoá - Nghệ thuật ở
nước ngoài và giảng viên của bộ môn được
mời bồi dưỡng kiến thức để thi tuyển. Như vậy,
xét về mặt đào tạo, đóng góp của các giảng
viên mỹ học Trường Đại học Văn hóa Hà Nội rất
đáng được ghi nhận.
Bên cạnh công việc đào tạo, trong hai thập
kỷ 70 và 80 của thế kỷ trước, Trường Lý luận và
Nghiệp vụ, với nòng cốt là bộ môn Mỹ học, đã
trở thành một trung tâm của các cuộc hội thảo
nghiên cứu về đời sống thẩm mỹ dân tộc. Các
hội thảo đều thu hút được rất nhiều sự quan
tâm của giới khoa học trong nước. Có thể nhắc
tới sự tham gia thường xuyên của GS. Vũ Khiêu
và nhiều nhà khoa học tên tuổi như Đỗ Huy,
Như Thiết, Trần Y Minh, Lê Anh Trà, Lê Ngọc Trà,
Lâm Vinh, Mịch Quang Trong tình hình thực
tiễn đất nước vừa kết thúc cuộc kháng chiến
chống Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước, mỗi cuộc hội thảo đều đặt ra những
vấn đề lý thuyết mới mẻ, được bàn thảo sôi nổi.
Có thể nhắc lại một vài ví dụ. Cuộc hội thảo về
Cái Anh Hùng nêu lên câu hỏi: “Liệu Cái Anh
Hùng có phải là một phạm trù mỹ học cơ bản
bên cạnh Cái Cao cả - một phạm trù có tính
truyền thống?”, hay “Cái Anh Hùng là phạm trù
đạo đức học hay phạm trù Mỹ học?”. Trong hội
thảo về Cái Bi có ý kiến băn khoăn: “Trong xã
hội chủ nghĩa có thể tiềm ẩn những nguyên
nhân tạo ra Cái Bi không?”, hay “Những đặc
trưng tốt đẹp của xã hội mới có khả năng kiềm
chế tác nhân nảy sinh Cái Bi như thế nào?”. Bàn
về phương pháp sáng tạo nghệ thuật hiện đại,
hội thảo về “Phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa” cũng đặt ra những vấn đề tranh cãi
Đến giai đoạn hiện nay, việc trả lời cho những
câu hỏi ấy có thể thấy đơn giản, nhưng ở thời
điểm ấy, không khí trao đổi học thuật khá sôi
nổi đã có ý nghĩa thực sự quan trọng trong
việc hoàn chỉnh về mặt lý luận cho một khoa
học còn non trẻ. Mặt khác, việc đứng ra tổ
chức các cuộc hội thảo khoa học này cũng góp
phần nâng cao vị thế của nhà trường trong xã
hội. Ngoài việc tham gia tích cực các hội thảo
của trường hay của các trung tâm nghiên cứu
40
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số 27 - Tháng 3 - 2019
khác, các giảng viên bộ môn còn tham gia viết
sách tham khảo, dịch thuật các tài liệu chuyên
đề phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy3. Sau
những tập bài giảng in ronéo từ những năm
90, các giáo trình đã được biên soạn, bổ sung
hoàn thiện qua từng năm. Đến nay, bộ môn đã
có ba cuốn giáo trình xuất bản vào các năm
1991, 1995 và 2004.
2. Dựa vào các giáo trình được công bố
làm nền tảng cho công việc đào tạo, trên cơ
sở so sánh với giáo trình của một số trường đại
học khác, có thể nhận thấy sự phát triển ngày
càng hoàn thiện về mặt lý thuyết của khoa học
Mỹ học đang được giảng dạy trong trường.
Có thể đưa ra một vài dẫn chứng: Nhận thấy
tính phiến diện của quan niệm “Mỹ học là khoa
học về cái đẹp”, các nhà mỹ học Việt Nam đều
cố gắng tìm một thuật ngữ khác có khả năng
bao quát rộng hơn đối tượng nghiên cứu. Một
số người đưa ra thuật ngữ “Cái thẩm mỹ” (bao
gồm ba bộ phận: cái thẩm mỹ khách quan,
cái thẩm mỹ chủ quan và cái thẩm mỹ nghệ
thuật) (1, tr.69-70). Tuy nhiên, tính mơ hồ của
thuật ngữ khiến nhiều người băn khoăn. Từ
giáo trình năm 1991, Trường Đại học Văn hóa
Hà Nội đã đưa ra khái niệm “Đời sống thẩm mỹ”
với ý nghĩa là mặt thẩm mỹ của đời sống xã
hội hay đời sống xã hội dưới góc độ thẩm mỹ.
Từ đó, “Những quy luật cơ bản và phổ quát nhất
của đời sống thẩm mỹ” được coi như đối tượng
nghiên cứu của khoa học này.
Sau đó, thuật ngữ “Đời sống thẩm mỹ” cũng
được giáo trình của một vài trường đại học sử
dụng. Tuy nhiên, cấu trúc của “Đời sống thẩm
mỹ” được lý giải thiếu hợp lý. Ví như quan
điểm cho rằng đời sống thẩm mỹ (hay quan
hệ thẩm mỹ) gồm ba bộ phận: Khách thể
thẩm mỹ, chủ thể thẩm mỹ và nghệ thuật (2,
tr.8). Việc đặt nghệ thuật ngang hàng với hai
thành tố kia khiến cấu trúc của đời sống thẩm
mỹ trở nên lỏng lẻo. Nhận thấy hạn chế này,
trong giáo trình xuất bản năm 2004, bộ môn
đề xuất phương pháp tiếp cận hệ thống trong
đối tượng nghiên cứu, xây dựng một cấu trúc
khoa học chặt chẽ hơn.
Đời sống thẩm mỹ của con người được
hình dung có hai cấp độ và bốn bình diện. Hai
cấp độ gồm cấp độ phổ quát (Quan hệ thẩm
mỹ của con người với hiện thực) và cấp độ đặc
thù (Nghệ thuật - hình thái biểu hiện tập trung,
điển hình của các mối quan hệ thẩm mỹ). Ở
mỗi cấp độ, các thành tố được trình bày theo
nguyên tắc Nguyên - Phân - Hợp (Sơ đồ 1).
Tương quan giữa các thành tố thuộc hai
cấp độ đều theo cặp phổ quát và đặc thù:
Quan hệ thẩm mỹ và quan hệ nghệ thuật; Chủ
thể thẩm mỹ và chủ thể hoạt động nghệ thuật;
Khách thể thẩm mỹ và khách thể - tác phẩm
nghệ thuật; Giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ
thuật. Chúng đồng dạng, đồng loại, đồng
chất, nhưng không đồng cấp.
Mỗi cấp độ của đời sống thẩm mỹ bao quát
trên bốn bình diện (Sơ đồ 2).
Cần nói thêm về bình diện thứ tư của đời
sống thẩm mỹ, có liên quan trực tiếp tới công
việc đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá. Bình diện
này được giáo trình đề cập đến xuất phát từ
quan niệm: sự hình thành và phát triển các
năng lực thẩm mỹ cũng như hiệu quả của hoạt
động sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ (nghệ
thuật) còn phụ thuộc vào cơ cấu và khả năng
điều hành thực tiễn của hệ thống lãnh đạo quản
lý phân phối và truyền bá các giá trị thẩm mỹ.
Hệ thống này luôn có mối tương tác, giữ vai
trò thúc đẩy hoặc kìm nén sự phát triển của
các thành tố khác. Các thiết chế văn hoá nằm
trong hệ thống cũng có mối liên hệ và vai trò
tương tự. Coi nhẹ hoặc loại bỏ bất kỳ thành tố
nào cũng sẽ ảnh hưởng tới các thành tố còn
lại. Ví dụ, chỉ khi các cơ quan nghiên cứu hoạt
động có hiệu quả thì các cấp lãnh đạo mới
được cung cấp cơ sở khoa học vững chắc để
xây dựng đường lối, chính sách, các bộ phận
quản lý mới am hiểu rõ đối tượng và điều hành
đúng quy luật. Nếu các cơ quan có trách nhiệm
như Bộ Văn hoá, các hội nghệ thuật, các thiết
chế văn hoá (nhà xuất bản, nhà in, nhà văn hoá,
thư viện, bảo tàng, triển lãm, phát hành sách,
phát hành phim,) kể cả hệ thống xét duyệt
khen thưởng, quỹ bảo trợ sáng tạo, được tổ
chức tốt, đúng với vai trò chức năng của mình
thì đời sống thẩm mỹ của dân tộc mới phát
triển bền vững, toàn diện, hình thành được các
sản phẩm thẩm mỹ có giá trị cao. Có thể thấy,
việc quan tâm đến tính chất đặc thù của các
ngành đào tạo tại Trường Đại học Văn hoá Hà
Nội đã tạo nên sự khác biệt trong giáo trình Mỹ
học của trường so với giáo trình của một số cơ
sở đào tạo khác.
41Số 27 - Tháng 3 - 2019
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm
thành lập Trường ĐHVHHN
3. Có một câu hỏi được đặt ra: Lý do nào đã
đưa đến việc ngôi trường đào tạo cán bộ văn
hoá lại là đơn vị đầu tiên ở nước ta thành lập
tổ bộ môn Mỹ học và tại sao mỹ học có vai trò
của một khoa học cơ sở mà mọi cấp học đào
tạo cán bộ văn hoá bắt buộc tiếp cận? Câu trả
lời được tìm kiếm từ Bản chất của văn hoá cũng
như Đối tượng nghiên cứu của Mỹ học.
Theo từ nguyên, Văn hoá là “sự biến đổi cho
đẹp” và Quản lý văn hoá mang nội hàm “Quản
lý quá trình con người hoạt động đồng hoá thẩm
mỹ đối với thế giới”. Trong tác phẩm “Bản thảo
kinh tế triết học 1844”, khi so sánh giữa người
và động vật, C. Mác có lưu ý tới điểm phân biệt
rõ nhất đó là “con người luôn luôn nhào nặn
vật chất theo Quy luật của cái Đẹp”. Sau này,
nhà văn Nga Mácxim Goócki còn nhấn mạnh
thêm: Dù ở đâu và bằng bất cứ cách nào, con
người cũng luôn luôn mong muốn đưa cái đẹp
vào cuộc sống. Con người tạo ra xung quanh
mình một cái tự nhiên thứ hai, đó là Văn hoá.
Chúng ta có thể nhận thấy tính chất phổ quát,
tiêu biểu và nổi trội của khía cạnh thẩm mỹ
trong mọi hoạt động văn hoá, mọi hiện tượng
văn hoá. “Tuy văn hoá liên quan đến tất cả các
chiều của cuộc sống, nhưng văn hoá thẩm mỹ
luôn là trung tâm của mọi nền văn hoá. Văn
hoá luôn là văn hoá thẩm mỹ” (3, tr.153). Còn
Mỹ học, như đã nói ở phần trên, là một trong
những khoa học triết học có hướng nghiên
cứu là những quy luật cơ bản và phổ quát nhất
của đời sống thẩm mỹ. Trong các lĩnh vực của
đời sống đều có thể tồn tại mặt thẩm mỹ, hay
nói cách khác, mặt thẩm mỹ mang tính chất
đại diện, bao quát, thẩm thấu vào trong mọi
Giá trị NT
Chủ thể hoạt động NT Khách thể, tác phẩm NT
Quan hệ NT
Giá trị TM
Quan hệ TM
Chủ thể TM Khách thể TM
ĐỜI
SỐNG
THẨM
MỸ
Cấp độ đặc thù
Cấp độ phổ quát
Sơ đồ 1. Các cấp độ của đời sống thẩm mỹ
Sơ đồ 2. Các bình diện của đời sống thẩm mỹ
42
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số 27 - Tháng 3 - 2019
bình diện của tự nhiên, xã hội (chính trị, kinh
tế, đạo đức, lối sống,). Trong quá trình chiếm
lĩnh thế giới về mặt thẩm mỹ, con người sẽ
khám phá và sáng tạo ngày càng nhiều các giá
trị thẩm mỹ cho chính mình và thế giới xung
quanh. Với đối tượng nghiên cứu này, Mỹ học
gần gũi với người học - vừa với tư cách cá nhân
có khả năng sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ, vừa
với tư cách người cán bộ văn hoá là “cầu nối”
giữa hoạt động sáng tạo và hoạt động cảm thụ
đang diễn ra trong xã hội. Trong một thời gian
dài, Mỹ học cùng với Lý luận văn hoá (bộ môn
này được Trường thành lập vào đầu thập kỷ 80
của thế kỷ trước) luôn được coi là hai khoa học
cơ sở, nền tảng của ngành Văn hoá.
Tuy nhiên, trong vòng hai thập kỷ gần
đây, vai trò của bộ môn Mỹ học trong chương
trình đào tạo của Trường đã thay đổi. Về mặt
tổ chức, từ một bộ môn khoa học độc lập trực
thuộc sự quản lý của Ban Giám hiệu, Mỹ học
được nhập thành bộ môn của Khoa Mác Lênin
vào năm 1998, và đến nay, nó chỉ còn là một
môn học nằm trong tổ các khoa học cơ bản
thuộc Khoa Kiến thức cơ bản. Thời lượng, thời
gian và lượng kiến thức giảng dạy của môn
học này hiện chỉ bằng một phần ba thời lượng
ở giai đoạn trước những năm 90.
Lần thay đổi đầu tiên xuất hiện sau khi Bộ
Đại học công bố khung 7 chương trình đào tạo
và Trường Đại học Văn hoá Hà Nội nằm ở nhóm
khoa học nhân văn (khung chương trình 6)
với yêu cầu các khoa đào tạo ngành nhân văn
đều học môn Mỹ học. Từ đó, số trường có bộ
môn Mỹ học tăng lên (3 đơn vị học trình) kèm
theo việc tổ chức biên soạn giáo trình riêng.
Môn học này ở Trường Đại học Văn hoá Hà
Nội vốn từ 90 tiết, giờ đây giảm đi một nửa,
ngang bằng với môn học của các trường ngoài
ngành Văn hoá. Sau này, do kiến nghị của bộ
môn, học phần Mỹ học nghệ thuật (2 đơn vị
học trình) được bổ sung vào chương trình đào
tạo của Khoa Quản lý văn hoá - nghệ thuật.
Lần thay đổi thứ hai thuộc giai đoạn đào tạo
tín chỉ. Lúc này, Mỹ học hoàn toàn bị bỏ qua
tính chất đặc thù là môn học cơ sở của ngành,
thời lượng rút xuống còn 2 tín chỉ (30 tiết). Với
khối lượng thời gian trên lớp ít ỏi, người dạy
chỉ có thể đề cập khái quát những nguyên lý
cơ bản, nhiều phần chỉ lướt qua (ví dụ Lịch sử
tư tưởng), đặc biệt những phần liên quan đến
nghề nghiệp của người cán bộ văn hoá bị loại
bỏ. Điều kiện thực tế này không khuyến khích
giảng viên đi sâu tìm hiểu nghiên cứu những
vấn đề đang nảy sinh, đang nổi cộm trong đời
sống thẩm mỹ của dân tộc.
Kết luận
60 năm khai sinh một mái trường và 56
năm hình thành một bộ môn, tuy không quá
dài, nhưng những gì các thế hệ giảng viên mỹ
học đã đóng góp cho sự nghiệp đào tạo cán
bộ văn hoá trên đất nước này không phải nhỏ.
Khát vọng “Xây dựng một Đời sống thẩm mỹ dân
tộc ngày càng toàn diện và sâu sắc” đã được họ
nhen nhóm trong ý thức của những người làm
công tác quản lý văn hoá - nghệ thuật nhiều
năm qua là một động lực quan trọng giúp đội
ngũ này hoàn thành tốt trách nhiệm của mình
trước xã hội, thực sự là những chủ thể giữ vai
trò định hướng đời sống thẩm mỹ.
N.H.M
(NGƯT., Nguyên giảng viên Khoa Kiến thức cơ bản,
Trường ĐHVHHN)
Chú thích
1 Thế hệ các giảng viên đầu tiên chỉ còn lại
PGS.TS. Tạ Văn Thành. Hiện ông đang tham gia
cộng tác tại Trường Đại học Hùng Vương, Tp. Hồ
Chí Minh.
2 Giảng viên Nguyễn Văn Tước (tức Hoài Lam)
là người đầu tiên của Trường Đại học Văn hóa Hà
Nội được phong Phó giáo sư năm 1983, giảng
viên Nguyễn Hồng Mai được Nhà nước tặng
danh hiệu Nhà giáo ưu tú năm 1997.
3 Một số công trình đã được xuất bản như:
- Hoài Lam (1987), Tìm hiểu Mỹ học Mác Lênin,
Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
- Hoài Lam (1991), Về biện chứng của đời sống
thẩm mỹ và nghệ thuật, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2004), Giáo
trình Mỹ học đại cương, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
2. Đỗ Văn Khang (chủ biên) (1997), Mỹ học đại
cương, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
3. Viện Văn hóa (1986), Khái niệm và quan
niệm về văn hoá, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 10 - 11 - 2018
Ngày phản biện, đánh giá: 16 - 2 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 20 - 3 - 2019