1. MỞ ĐẦU
Hiệp hội các trường Cao đẳng và Đại học Mỹ (Association of American Colleges and
Universities) đã nêu khái niệm giáo dục khai phóng (Liberal Arts Education) là "một triết lí
giáo dục cung cấp cho các cá nhân một nền tảng kiến thức rộng và những kĩ năng có thể
chuyển đổi được, và một cảm nhận mạnh mẽ về các giá trị, đạo đức, và sự can dự vào đời
sống công dân,." [7].
Theo Lê Hà thì “Giáo dục khai phóng là mô hình giáo dục bậc đại học hiện đang được
áp dụng rộng rãi tại Hoa Kì, các quốc gia tiên tiến có nền giáo dục phát triển tại châu Âu,
châu Á với đặc trưng là đào tạo linh hoạt, chú trọng cả chiều rộng và chiều sâu của môn
học, khuyến khích các môn liên ngành, tăng cường khả năng lựa chọn cho sinh viên” [3].
Như vậy, theo các quan điểm trên thì giáo dục khai phóng ở bậc đại học có một số đặc
điểm cơ bản sau:
- Sinh viên được trang bị các kiến thức nền khá rộng;
- Các kiến thức liên ngành được cung cấp cho sinh viên trong quá trình đào tạo;
Trên cơ sở kiến thức nền và các kiến thức liên ngành được trang bị rộng sinh viên sẽ
được trang bị cách kiến thức ngành đào tạo sâu sắc.
Ngoài ra, tư tưởng của giáo dục khai phóng còn được hiểu là phát huy tối đa năng lực,
sở thích và nguyện vọng cá nhân trong việc chọn ngành nghề đào tạo. Điều này, theo Đinh
Vũ Trang Ngân, Giám đốc chương trình Cử nhân tại Đại học Fulbright Việt Nam thì giáo dục khai phóng chú trọng về nghệ thuật tự do. Bao gồm: Tư duy tự do, suy nghĩ tự do và
lựa chọn tự do [2].
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục khai phóng và một số mô hình ứng dụng tại trường Đại học thủ đô Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
GIÁO DỤC KHAI PHÓNG VÀ MỘT SỐ MÔ HÌNH ỨNG
DỤNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Nguyễn Văn Tuấn
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Tóm tắt: Trong báo cáo này, chúng tôi trình bày một số ưu điểm nổi bật của giáo dục
khai phóng ở các trường đại học. Thông qua phân tích giáo dục khai phóng tại trường
Đại học Fulbright Việt Nam, chúng tôi đề xuất một số mô hình vận dụng giáo dục khai
phóng vào đào tạo tại Trường Đại học Thủ đô Hà Nội.
Từ khóa: Giáo dục, khai phóng, đại học hai giai đoạn.
Nhận bài ngày 10.5.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 24.6.2020
Liên hệ tác giả: Nguyễn Văn Tuấn; Email: nvtuan@daihocthudo.edu.vn
1. MỞ ĐẦU
Hiệp hội các trường Cao đẳng và Đại học Mỹ (Association of American Colleges and
Universities) đã nêu khái niệm giáo dục khai phóng (Liberal Arts Education) là "một triết lí
giáo dục cung cấp cho các cá nhân một nền tảng kiến thức rộng và những kĩ năng có thể
chuyển đổi được, và một cảm nhận mạnh mẽ về các giá trị, đạo đức, và sự can dự vào đời
sống công dân,..." [7].
Theo Lê Hà thì “Giáo dục khai phóng là mô hình giáo dục bậc đại học hiện đang được
áp dụng rộng rãi tại Hoa Kì, các quốc gia tiên tiến có nền giáo dục phát triển tại châu Âu,
châu Á với đặc trưng là đào tạo linh hoạt, chú trọng cả chiều rộng và chiều sâu của môn
học, khuyến khích các môn liên ngành, tăng cường khả năng lựa chọn cho sinh viên” [3].
Như vậy, theo các quan điểm trên thì giáo dục khai phóng ở bậc đại học có một số đặc
điểm cơ bản sau:
- Sinh viên được trang bị các kiến thức nền khá rộng;
- Các kiến thức liên ngành được cung cấp cho sinh viên trong quá trình đào tạo;
Trên cơ sở kiến thức nền và các kiến thức liên ngành được trang bị rộng sinh viên sẽ
được trang bị cách kiến thức ngành đào tạo sâu sắc.
Ngoài ra, tư tưởng của giáo dục khai phóng còn được hiểu là phát huy tối đa năng lực,
sở thích và nguyện vọng cá nhân trong việc chọn ngành nghề đào tạo. Điều này, theo Đinh
Vũ Trang Ngân, Giám đốc chương trình Cử nhân tại Đại học Fulbright Việt Nam thì giáo
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 41/2020 21
dục khai phóng chú trọng về nghệ thuật tự do. Bao gồm: Tư duy tự do, suy nghĩ tự do và
lựa chọn tự do [2].
Để minh họa, chúng ta lấy chương trình dào tạo (CTĐT) của Trường Đại học
Fulbright Việt Nam. Theo sơ đồ 1, cụ thể, trước
khi đi vào ngành đào tạo trong hai năm đầu sinh
viên được trang bị kiến thức của các môn thuộc
bốn nhóm sau [2]:
Nhân văn (Humanities): Văn học, Ngôn ngữ
học, Lịch sử, Triết học, Khoa học xã hội
(Social Sciences): Nhân chủng học, Kinh tế học,
Xã hội học, Tâm lí học, Luật, Khoa học tự
nhiên (Natural Sciences): Toán, Hoá, Sinh, Vật lí,
Địa lí, Khoa học Trái đất, Khoa học Môi
trường, Nghệ thuật (Creative Arts): Lịch sử
nghệ thuật, Kịch sân khấu, Âm nhạc, Nghệ thuật
thị giác,
Với kiến thức nền được trang bị trên đây,
không khó chúng ta có thể rút ra kết luận: Sinh
viên đào tạo theo chương trình giáo dục khai
phóng có đủ kiến thức nền toàn diện để dễ dàng
thích nghi với các môi trường khác nhau trong làm
việc cũng như đủ sức đáp ứng với những thay đổi
của cuộc sống. Chương trình giáo dục khai phóng
đáp ứng với mục tiêu đào tạo theo Luật Giáo dục
[2]: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện
con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa,
sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp; có phẩm chất,
năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc, trung thành với lí tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng,
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và hội nhập quốc tế”.
Cũng theo sơ đồ 1, kiến thức sinh viên được trang bị tại trường Đại học Fulbright Việt
Nam trong hai năm cuối của quá trình học ở đại học. Để phân tích làm rõ ưu điểm của giáo
dục đại học khai phóng và một số mặt có thể là hạn chế giúp ra kết luận cho định hướng
đào tạo hai giai đoạn tại Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, chúng ta phân tích nội dung
CTĐT hai nhóm ngành của Trường Đại học Fulbright Việt Nam.
Sơ đồ 1. Khái quát chương trình
giáo dục khai phóng tại Đại học
Fulbright Việt Nam
Hình 2. Seminar tại đại học khai
phóng
Hình 1. Minh họa về giáo dục đại
học khai phóng
22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Ngành Kĩ thuật
Ở ngành này chương trình của trường Đại học Fulbright Việt Nam đào tạo chuyên sâu
về Kĩ thuật tổng hợp, Cơ điện tử, Khoa học và Kĩ thuật vật liệu.
Chuyên ngành Kĩ thuật sẽ trang bị kiến thức cơ bản về vật lí, hóa học, sinh học và toán
học. Điều căn bản các kiến thức liên ngành được ứng dụng tổng hợp nhằm phát triển các giải
pháp phù hợp có tác động tích cực đến xã hội. Chương trình đã xác định: “Các vấn đề được
xác định rõ ràng bằng cách đặt câu hỏi đúng. Trong lĩnh vực kĩ thuật, sinh viên nghiên cứu và
phân tích các vấn đề nhằm tìm hiểu nhu cầu người dùng, sau đó ứng dụng các công cụ kĩ thuật
để thiết kế sản phẩm hoặc tìm giải pháp. Những hạn chế về kinh tế, môi trường, xã hội, chính
trị, đạo đức, sức khỏe và an toàn, năng lực sản xuất và tính bền vững phải được xem xét thông
qua quy trình kĩ thuật. Kĩ thuật là một chuyên ngành phù hợp với những sinh viên thích giải
quyết vấn đề sáng tạo thông qua thiết kế sản phẩm hoặc tạo ra giải pháp.
Một số câu hỏi lớn hiện nay trong lĩnh vực kĩ thuật là: Liệu chúng ta có thể chế tạo ra các
loại thuốc tốt hơn không? Làm thế nào để chúng ta khôi phục và cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị?
Làm cách nào để khiến năng lượng mặt trời kinh tế hơn? Làm cách nào để cung cấp nước sạch
cho vùng nông thôn? Các kĩ sư hoạt động và đi đầu trong hầu hết mọi lĩnh vực có ảnh hưởng
đến con người – thiết kế điện thoại thông minh, tạo ra vật liệu sinh học, sản sinh năng lượng tái
tạo, nghiên cứu dữ liệu và đưa ra quyết định tốt hơn, thiết kế hệ thống điều khiển cho máy bay,
xây dựng cầu và cơ sở hạ tầng. Đây là một chuyên ngành đa năng cho phép bạn khám phá tác
động của công nghệ trong xã hội. Các kĩ sư góp phần giúp xây dựng tương lai” [8].
Những vấn đề sẽ xuất hiện trong tương lai do phân tích xu hướng hiện tại được nhà
trường chủ động đề cập ngay vào các chuyên ngành chuyên sâu. Cụ thể: Tác động môi
trường của vi nhựa; Vai trò của kĩ thuật trong chống biến đổi khí hậu; Tương lai của năng
lượng tái tạo Việt Nam; Tự động hóa ngành vận tải.
Nghiên cứu chương trình ngành Kĩ thuật của trường Đại học Fulbright Việt Nam,
chúng ta thấy có một số ưu điểm sau: (i) Ngành đào tạo mà các chuyên gia phát triển
chương trình nhà trường đề xuất và giảng dạy chính là các nhóm ngành theo quy định hiện
tại của nước ta hiện nay. Nhưng do cơ chế có thể là đặc thù nên Fulbright được quyền đào
tạo. Do đó, trong quá trình học, tùy theo năng lực và sở thích sinh viên có thể chọn chuyên
sâu vào một lĩnh vực. Đây là minh chứng đào tạo theo khai phóng; (ii) Do chuẩn bị mở
ngành chu đáo, nghiên cứu các nghề hiện tại và tương lai nên có thể khẳng định, sinh viên
tốt nghiệp sẽ đáp ứng yêu cầu thị trường và những ngành sẽ xuất hiện trong cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đã được dự kiến và trang bị kiến thức tốt để đáp ứng; (iii) Mỗi
ngành mà Fulbright mở theo giáo dục khai phóng thực chất là nhóm ngành. Điều này có
thể học và vận dụng vào hai giai đoạn và trình bày kĩ vào phần sau.
Ngành Toán học và Khoa học máy tính
Theo chương trình của trường Đại học Fulbright thì ngành Toán học và Khoa học máy
tính sẽ gồm các chuyên sâu: Toán học, lí thuyết và ứng dụng, Khoa học máy tính, Trí tuệ
nhân tạo và Học máy, Khoa học dữ liệu.
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 41/2020 23
Chương trình tập trung hình thành suy luận logic cho sinh viên. Chúng ta biết rằng
hiện nay và nhất là trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nền tảng vẫn là dữ liệu. Từ dữ
liệu đầu vào qua các công cụ toán học như xác suất thống kê, các loại phân tích dựa trên
thống kê như hồi quy, chuỗi thời gian, phân tích Bayes, sẽ rút ra dự đoán khoa học, điều
khiển quá trình ra quyết định, tự động hóa trong sản xuất thông minh, quản lí thông
minh, Do vậy, Fulbright đã chú trọng truyền thụ cho sinh viên những dữ liệu này. Ngoài
ra sử dụng các công cụ phần mềm cũng được chú trọng trong giảng dạy. Sinh viên được
học thông qua kinh nghiệm làm việc trực tiếp trong các dự án. Quá trình trang bị kiến thức
và thực hành trong thực tế công việc mà họ phải giải quyết sẽ đem lại năng lực toàn diện
giúp họ có thể giải quyết tốt công việc ngay sau khi tốt nghiệp. Các công việc này không
chỉ là hiện tại mà còn lường trước các cơ hội ngành nghề khi cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 phát triển trên đất nước. Tuỳ theo khả năng và sở thích, giáo dục khai phóng được thể
hiện, sinh viên theo học ngành này có thể lựa chọn các lĩnh vực chuyên sâu: Các ứng dụng
tiềm năng của trí tuệ nhân tạo; Thiết kế máy tính xoay quanh trải nghiệm người dùng; Đạo
đức của máy móc và AI; Khoa học dữ liệu như một công cụ kinh doanh [8]. Đây là những
ngành đón trước việc làm sẽ xuất hiện trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Qua phân
tích việc trang bị kiến thức nền trong hai năm đầu và kiến thức ngành và kế hoạch giảng
dạy chương trình giáo dục khai phóng của trường Đại học Fulbright Việt Nam, chúng ta có
thể rút ra kết luận sau:
- Trang bị kiến thức nền đa dạng, phong phú, toàn diện về các lĩnh vực của cuộc sống.
Với kiến thức nền như vậy, sinh viên đủ năng lực ứng xử, làm việc tốt trong mọi môi
trường. Có thể nói việc trang bị kiến thức như vậy, Fulbright đã làm rất tốt bốn trụ cột cơ
bản của UNESCO về học tập trong thế kỉ XXI:
“ Học để biết,
Học để làm,
Học để cùng chung sống,
Học để khẳng định mình.”
- Mỗi ngành mà Fulbright đào tạo thực chất là một nhóm ngành. Đây là những nhóm
ngành mới phù hợp với hiện tại và đáp ứng nhu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,
đội ngũ chuyên gia phát triển chương trình của Fulbright phải dày công nghiên cứu, bám
sát yêu cầu của thị trường lao động Việt Nam, có tính đến xu hướng phát triển ngành nghề
trên thế giới mới có thể đề xuất trúng đích như vậy.
- Trao đổi du học sinh cũng là một điểm mạnh của giáo dục khai phóng tại trường Đại
học Fulbright Việt Nam. Khi được giao lưu quốc tế trong đào tạo, sinh viên có thể học
được nhiều điểm mạnh của sinh viên các nước khác. Quá trình này vừa phát huy kiến thức
nền, kiến thức chuyên ngành được trang bị khi học vừa bổ sung những điểm còn yếu của
bản thân, giúp sinh viên hoàn thiện quá trình đào tạo khai phóng của mình.
- Giáo dục khai phóng phát huy cao độ tính chủ động, năng lực sáng tạo của sinh viên.
Năng lực này phải do rèn luyện trong cả quá trình học tập trong trường và công tác sau
24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
này. Để thực hiện phương châm này, trong quá trình học tập giáo dục khai phóng, trường
Đại học Fubbright Việt Nam đã tổ chức nhiều hoạt động giúp sinh viên tùy theo sở thích và
năng lực để trải nghiệm kiến thức của mình, trong đó, phải kể đến các dự án cộng đồng.
Theo [7] thì nội dung của các dự án giáo dục cộng đồng: “Các dự án cộng đồng sẽ góp
phần xây dựng một xã hội tích cực hơn, văn minh hơn, bình đẳng hơn. Và điều quan trọng
hơn, là nó đến từ chính cộng đồng, là cách con người, cách tất cả chúng ta yêu thương,
giúp đỡ lẫn nhau. Bởi vậy, khi con tham gia dự án cộng đồng, điều đầu tiên các con sẽ cảm
nhận được chính là những giá trị nhân văn vô giá trong mỗi dự án. Cùng với đó chính là
những ũi năng mềm. Không một môi trường nào lại có thể giúp con học hỏi, hoàn thiện
những kĩ năng mềm sớm và tuyệt vời như tham gia các dự án cộng đồng. Các bạn trẻ sẽ
cùng nhau học tập, cùng nhau rèn luyện và cùng nhau tiến bộ”.
Như vậy, giáo dục khai phóng với nhiều ưu điểm đào tạo con người toàn diện, thích
nghi với các môi trường làm việc và làm việc trong môi trường luôn biến đổi trước những
tiến bộ vượt bậc của khoa học, công nghệ đang được một số trường ở nước ta triển khai.
Chẳng hạn các trường Đại học Fulbright Việt Nam, trường Đại học Việt – Nhật, hệ thống
các trường phổ thông của Gateway,
2. NỘI DUNG
2.1. Vận dụng mô hình giáo dục khai phóng và đào tạo đại học hai giai đoạn
Qua phân tích ở trên, giáo dục đại học khai phóng đã được nghiên cứu triển khai ở
nước ta vào những năm 1990. Thời kì đó giáo dục đại học chia làm hai giai đoạn: Giai
đoạn đào tạo đại học đại cương và giai đoạn đào tạo chuyên ngành. Trong giai đoạn đào
tạo đại cương, các ngành đào tạo được thiết kế theo nhóm ngành với chương trình khá
thống nhất trong các trường đại học khi cùng đào tạo các nhóm ngành này. Sau giai đoạn 1,
sinh viên phải thi vào giai đoạn 2 để lựa chọn ngành phù hợp. Khi đó, sinh viên có thể
chọn các ngành đào tạo ở các trường đại học khác nhau trong cùng nhóm ngành. Với sự
đổi mới về phương pháp đào tạo trong giai đoạn này, có thể nói mô hình đại học khai
phóng đã được vận dụng vào nước ta. Trải qua gần 10 năm thực hiện mô hình đào tạo đại
học hai giai đoạn này (từ 1990 đến năm 1998), đào tạo đại học không mang lại kết quả
mong muốn. Theo đánh giá của GS. Lâm Quang Thiệp, trước đây, khi thực hiện đổi mới
giáo dục đại học từ những năm 90, “nghiên cứu giáo dục Hoa Kì, chúng tôi thấy phần đại
cương với những điểm tương đồng với mô hình giáo dục khai phóng được các đại học Mỹ
coi trọng, nói rằng đó chính là để hình thành con người, con người như mục đích chứ
không phải như công cụ". “Tiếp thu tinh thần ấy, chúng tôi cũng đưa vào giáo dục đại học
ở Việt Nam hai phần, đại cương và kinh viện. Nhưng khi thực hiện thì rất khó khăn, vấp
phải nhiều ý kiến phản đối và đã không thành công" [3].
Để lí giải lí do không thành công của đào tạo hai giai đoạn trên đây, chúng ta có
thể chỉ ra các nguyên nhân sau: (i) Đòi hỏi của thị trường với chất lượng nguồn nhân
lực là yếu tố quan trọng trong hình thành nhóm ngành, ngành hay chuyên ngành đào tạo
ở trường đại học. Trong giai đoạn đào tạo hai giai đoạn đại học kể trên, tình hình khoa
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 41/2020 25
học công nghệ và sự phát triển kinh tế - xã hội chưa thực mạnh mẽ. Với cách đào tạo
truyền thống, với những ngành truyền thống các trường đại học chưa cần nghiên cứu
phát triển mạnh CTĐT. Với bằng cấp các trường đào tạo, sinh viên tốt nghiệp có thể
tìm kiếm việc làm. Do vậy, đào tạo hai giai đoạn không có nghĩa thiết thực; (ii) Tâm lí
tuyển dụng lao động dựa vào bằng cấp và đánh giá kết quả học tập tại trường đại học
còn khá phổ biến. Do vậy, người tuyển dụng chỉ nhìn vào bằng cấp, học lực và vấn đáp
để tuyển dụng. Như thế ý nghĩa của đào tạo khai phóng, hai giai đoạn chưa có điều kiện
để thể hiện tính nổi trội so với mô hình đào tạo một giai đoạn trước đây; (iii) Nhận thức
về ý nghĩa, tác dụng của đào tạo hai giai đoạn theo mô hình khai phóng còn ít được biết
đến trong xã hội. Điều này gây khó khăn cho việc triển khai; (iv) Quy chế về xác định
ngành đào tạo, nhóm ngành đào tạo còn chặt chẽ. Thủ tục mở một ngành đào tạo mới
phải qua các thủ tục phức tạp. Đến nay, theo Luật Giáo dục đại học [1] thì mở ngành
đào tạo vẫn do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Vì thế mở được một ngành đào tạo
mới còn nhiều khó khăn. Ngoài ra, quy định nhóm ngành đào tạo phải do Chính phủ.
Những rào cản này đến bây giờ vẫn còn là một khó khăn.
Từ những phân tích trên về ưu điểm của giáo dục khai phóng và vận dụng đào tạo đại
học hai giai đoạn không thành công, chúng ta có thể rút ra các bài học cần thiết để khuyến
nghị nâng cao chất lượng đào tạo tại nhà trường. Cụ thể, có thể lựa chọn các mô hình sau:
* Mô hình 1. Thực hiện đào tạo theo nhóm ngành
Ý tưởng của mô hình này là kết hợp các ngành đào tạo gần nhau đã có trong danh mục
các ngành đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Cấu trúc nhóm ngành này để đào
tạo hai giai đoạn theo mô hình giáo dục khai phóng. Cụ thể: Xác định tên chung của nhóm
ngành: Có thể lấy một chuyên ngành chuyên sâu để lấy tên chung cho cả nhóm ngành.
+ Ví dụ 1: Ngành Toán tin
Ngành này được cấu trúc với các ngành chuyên sâu gần nhau tạo nên (thực chất là các
ngành được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép được đào tạo). Đặt tên như vậy để nhiều
người hiểu hơn và tuyên truyền giải thích đầy đủ bao gồm các ngành đào tạo sau: Toán tin;
Toán ứng dụng; Khoa học tính toán; Thống kê, Khoa học dữ liệu và Sư phạm toán. CTĐT
của nhóm ngành này được xây dựng theo tinh thần đào tạo theo tín chỉ và giáo dục khai
phóng. Cụ thể, giai đoạn 1: Gồm những học phần chung cho cả nhóm ngành và những học
phần trang bị kiến thức nền bao quát của giáo dục khai phóng. Giai đoạn 2: Tùy theo
nguyên vọng của sinh viên mà 2 năm cuối của quá trình đào tạo có thể chọn các ngành
tương ứng. Sau khi tốt nghiệp, bằng cấp của sinh viên được ghi theo ngành lựa chọn. Khác
biệt ở đây là bố trí các học phần đón trước yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 và
những ưu điểm của đào tạo khai phóng như đã phân tích ở trên. Với những ngành không có
trong danh sách đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, phải làm các thủ tục theo quy định để
bằng cấp của sinh viên được công nhận hợp pháp.
+ Ví dụ 2: Nhóm ngành Công nghệ thông tin
Tương tự như trên, nhóm ngành này cũng gồm các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực công
26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
nghệ thông tin theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Có thể bao gồm: Công nghệ
thông tin; Công nghệ phần mềm; Khoa học máy tính, Trí tuệ nhân tạo,
* Mô hình 2. Xây dựng nhóm ngành theo ý tưởng của trường Đại học Fullbright
Xã hội phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa, các doanh nghiệp hướng tới tuyển kĩ sư
theo năng lực làm việc. Xu hướng này sẽ sớm xảy ra. Do vậy, chúng ta không ngại đào tạo
theo mô hình này sẽ thất bại như đào tạo đại học hai giai đoạn của thập kỉ 90 thế kỉ trước.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là: Với nhóm ngành này (để cho đơn giản ta gọi là ngành)
việc làm thủ tục xin phép đào tạo phải dễ dàng. Đành rằng thủ tục mở ngành mới theo các
quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Để thành công mô hình đào tạo khai
phóng, Nhà trường cần đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhất là đội ngũ cán bộ
giảng dạy. Ngoài ra, tuyển sinh trong những năm đầu cần lựa chọn kĩ càng để có đội ngũ
sinh viên đầu vào đủ năng lực tiếp thu kiến thức trong quá trình đào tạo.
3. KẾT LUẬN
Giáo dục đại học khai phóng là hướng đào tạo đáp ứng cao với yêu cầu thị trường.
Hướng đào tạo này phù hợp trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra trên phạm
vi toàn cầu. Vận dụng giáo dục khai phóng là quá trình không đơn giản. Tuy nhiên, với
những bước đi cụ thể, chắc chắn Nhà trường sẽ thành công. Khi đó, với mô hình đào tạo
mới sẽ làm nên đặc trưng đào tạo của Trường Đại học Thủ đô Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo dục đại học, Luật số: 34/2018/QH14 của Quốc hội 14 ngày 19/11/ 2018.
2. Luật Giáo dục, Luật số: 43/2019/QH14 của Quốc hội 14. ngày 14/6/6/2019.
3. Lê Hà (2017), Giáo dục khai phóng: Xu hướng đào tạo đại học mới cho Việt Nam?
4. Lam Vy Mai (2019), 5 hiểu lầm của giáo dục khai phóng.
5. Mortimer J. Adler (2016), Những tư tưởng lớn từ thững tác phẩm vĩ đại, Nxb. Văn hóa Thông tin.
THE MODEL AND APPLICATION OF LIBERAL ARTS
EDUCATION AT HANOI METROPOLITAN UNIVERSITY
Abstract. This article presents the advantages of liberal arts education at universities. By
assessing the case of liberal arts education at Fulbright University Vietnam, we propose
some methods to implement the approach at Hanoi Metropolitan University
Keywords: Liberal arts education, two stages of training.