Giao thoa văn hóa trong giao tiếp ngôn ngữ và trong dạy - học ngoại ngữ

Ngôn ngữ là sản phẩm đặc biệt của xã hội-lịch sử, gắn liền với nền văn hoá dân tộc trong quá trình hành chức của mình. Mỗi cộng đồng ngôn ngữ có tư duy ngôn ngữ và kinh nghiệm giao tiếp ngôn ngữ, vừa có tính phổ quát vừa mang tính đặc thù ở các cấp độ ngôn ngữ và cả cấp độ thực hành ngôn ngữ. Khoảng những thập niên 60, 70 của thế kỷ XX trong ngôn ngữ học xuất hiện thuật ngữ “văn hoá”. Đặc biệt, với thuật ngữ này nổi trội lên nhất là khái niệm giao văn hoá (cross–cultural) với nhiều nhà khoa học có tên tuổi. Và cách tiếp cận ngôn ngữ từ góc độ văn hoá làm cho bức tranh nghiên cứu ngôn ngữ học trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Bài viết tập trung trình bày giao thoa văn hoá trong diễn đạt ngôn ngữ và đặt vấn đề về những tác động của giao thoa văn hoá đối với giao tiếp ngôn ngữ trong dạy-học ngoại ngữ

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 112 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giao thoa văn hóa trong giao tiếp ngôn ngữ và trong dạy - học ngoại ngữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 529 GIAO THOA VĂN HÓA TRONG GIAO TIẾP NGÔN NGỮ VÀ TRONG DẠY-HỌC NGOẠI NGỮ Dng Qu"c Cng Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng Tóm t t: Ngôn ngữ là sản phẩm đặc biệt của xã hội-lịch sử, gắn liền với nền văn hoá dân tộc trong quá trình hành chức của mình. Mỗi cộng đồng ngôn ngữ có tư duy ngôn ngữ và kinh nghiệm giao tiếp ngôn ngữ, vừa có tính phổ quát vừa mang tính đặc thù ở các cấp độ ngôn ngữ và cả cấp độ thực hành ngôn ngữ. Khoảng những thập niên 60, 70 của thế kỷ XX trong ngôn ngữ học xuất hiện thuật ngữ “văn hoá”. Đặc biệt, với thuật ngữ này nổi trội lên nhất là khái niệm giao văn hoá (cross–cultural) với nhiều nhà khoa học có tên tuổi. Và cách tiếp cận ngôn ngữ từ góc độ văn hoá làm cho bức tranh nghiên cứu ngôn ngữ học trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Bài viết tập trung trình bày giao thoa văn hoá trong diễn đạt ngôn ngữ và đặt vấn đề về những tác động của giao thoa văn hoá đối với giao tiếp ngôn ngữ trong dạy-học ngoại ngữ. T khoá: ngôn ngữ, giao thoa, diễn đạt, văn hoá, giao tiếp, dân tộc, dạy và học Abstract: Language is a special product of a certain history and society which, throughout its course of operation, has evolved together with the development of the national culture. Each speech community has its own logic of thinking and experience of language communication with generalization and specification in different levels of language and language practice. The 1960s, 1970s marked the occurrence of the term “culture” in linguistics, especially the concept “cross-cultural” introduced by a number of famous linguists. This approach to language makes the field of linguistics research more diverse than ever. This article's aim is to discuss the cross - culture in expressing language and suggest some impacts of cross - culture in discourse in foreign language teaching and learning. Key words: language, cross, expressing, culture, nation, discourse, teaching and learning 1. Đặt vấn đề Trên thềm thiên niên kỷ thứ ba ở nhiều nước cũng như ở Việt Nam có sự quan tâm ngày càng gia tăng đối với văn hoá và đối thoại văn hoá giữa các dân tộc khác nhau, dẫn tới việc ra đời một chuyên ngành mới có tính độc lập, đó là ngành ngôn ngữ văn hoá học, nằm tại điểm giao nhau của ngôn ngữ và văn hoá. Đặc biệt, cùng với thuật ngữ này, nổi trội lên gần đây nhất là khái niệm Giao thoa văn hoá với nhiều nhà khoa học tên tuổi. Tình hình này khiến cho bức tranh nghiên cứu ngôn ngữ học trở nên đa dạng hơn bao giờ hết, mặt khác lại có không ít những đường biên giới không rõ ràng trong cách tiếp cận ngôn ngữ từ góc độ văn hoá. Bởi thế chúng ta “buộc phải nhìn lại một cách có hệ thống toàn bộ các xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ có đụng chạm đến văn hoá như một “hiện tượng luận” trong bối cảnh chung của ngôn ngữ học hiên đại” [2, 19]. Nội dung bài viết của chúng tôi đề cập đến vấn đề mối quan hệ sâu sắc giữa văn hoá và việc giao tiếp sử dụng ngôn ngữ thông qua hệ thống giá trị văn hoá và giao thoa văn hoá trong diễn đạt ngôn ngữ, từ đó đưa ra một số đề xuất liên quan đến vấn đề giao thoa văn hoá giao tiếp ngôn ngữ trong giảng dạy ngoại ngữ. 2. Nội dung 2.1. Văn hoá và giao thoa văn hoá Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa, bởi vì văn hoá là khái niệm có nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác nhau. GS Trần Ngọc Thêm cho rằng “Văn hoá là hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần, do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [7, 10]. Còn ngôn ngữ lại chính là sản phẩm văn hoá của nhân loại giống như tất cả Ti u ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 530 những sản phẩm văn hoá khác, nói cho chính xác, ngôn ngữ là một hiện tượng văn hoá, nằm trong văn hoá. Văn hoá có ngoại diên lớn, trong khi đó ngôn ngữ có ngoại diên hẹp hơn, nhưng có những đặc tính nội hàm rộng lớn hơn. Mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ là mối quan hệ bao nhau. Giữa chúng có những chỗ khác nhau, giao nhau và giống nhau. Mối quan hệ ấy được lược đồ hoá bằng hai vòng tròn dưới đây: Như vậy văn hoá là phạm trù rất đa diện, nhân tố văn hoá bao trùm lên ngôn ngữ và các sự kiện ngôn ngữ ở tất cả các bình diện và các cấp độ đơn vị ngôn ngữ, ở tổ chức cấu trúc nội ngôn ngữ và ở những hoạt động sử dụng ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp của con người - tổ chức cấu trúc ngoại ngôn ngữ. Tuy nhiên cũng có thể thấy rằng không phải tất cả các khía cạnh trên đều có thể tác động tới quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các ý niệm, nhất là các giá trị văn hóa, có tác động sâu sắc đến diện mạo của ngôn ngữ với tư cách là một phương tiện giao tiếp. Giao thoa văn hoá (giao văn hoá) là sự áp đặt, ảnh hưởng của hệ thống thói quen, cách hành xử thuộc mô hình văn hoá này đối với một hệ thống thói quen, cách hành xử của một mô hình văn hoá khác, ở những người tham gia giao tiếp - những thành viên của các hệ thống văn hoá; do vậy đã dẫn đến việc bóp méo hoặc hiểu sai cái mô hình văn hoá mà mình chưa rõ. Từ đó xuất hiện những hành xử văn hoá sai lạc trong một hệ thống văn hoá nhất định. Theo nghĩa hẹp của thuật ngữ, thì giao thoa văn hoá luôn bao gồm 2 dạng: những cách hành xử sai lạc trong giao tiếp phi ngôn ngữ và những cách hành xử sai lạc trong giao tiếp có tính ngôn ngữ. Ở dạng thứ hai, dạng sau, người ta thường đề cập đến các hiện tượng giao thoa do việc quen áp đặt, sử dụng những quy tắc nói năng (như trong lời chào hỏi, trong cách mở đầu hoặc kết thúc câu chuyện, trong hệ thống các cách sử dụng từ xưng hô...) của một ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ) sang một ngôn ngữ khác (ngoại ngữ) [1, 38]. 2.2. Giao thoa văn hoá giao tiếp ngôn ngữ và tác động của giao thoa văn hoá với dạy học ngoại ngữ Theo J.B. Grize [61-68] thì có 5 yếu tố chính yếu đảm bảo cho sự vận hành của quá trình giao tiếp ngôn ngữ: tính đối thoại, hoàn cảnh giao tiếp, quá trình tái hiện, kiến thức văn hoá định sẵn, quá trình tạo dựng thực tại khách quan. J.B.Grize cho rằng quá trình giao tiếp là quá trình tương tác không ngừng giữa hai đối tác giao tiếp, là quá trình nhận thức và nhận thức lại về chính mình, về đối tác và nội dung và hình thức văn bản giao tiếp. Đặc biệt trong quá trình đó, có sự tương tác giữa hai khối văn hóa định sẵn khác nhau của hai đối tác (Dẫn lại theo [4, 87-94]). Trong thực tế giao tiếp ngoại ngữ, ta thấy có một độ lệch văn hóa đáng kể giữa một đối tác xem như là người bản ngữ, ở đây muốn chỉ người sử dụng ngôn ngữ giao tiếp như là tiếng mẹ đẻ hoặc là ngôn ngữ thứ hai và đối tác sử dụng ngôn ngữ giao tiếp như là ngoại ngữ. Trường hợp này, việc hai đối tác cùng thỏa thuận để đạt được sự chia sẻ một khối kiến thức văn hóa chung định sẵn tối thiểu không phải là đơn giản. Khối kiến thức văn hóa chung tối thiểu này không những là cùng có kiến thức hiểu biết nhất định về các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội-nhân văn, cùng chia sẻ kiến thức hiểu biết những tập tục, tập quán tư duy và sinh hoạt của cộng đồng thuộc hai nền văn hóa khác nhau để bảo đảm việc nhận thông tin và xử lý thông tin, tránh những hiểu lầm, hay sốc văn hóa trong khi giao tiếp. Học ngoại ngữ, sinh viên thường đối diện với các hiện tượng lẫn lộn hay pha trộn giữa cách diễn đạt theo văn hóa giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ và cách diễn đạt theo văn hóa giao tiếp bằng ngoại ngữ đang học, do sinh viên lấy quy chuẩn từ các quy ước hay qui định của các thể loại văn bản tiếng mẹ đẻ thay thế hoàn toàn hay một phần các quy ước hay quy định của các thể loại văn bản của Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 531 ngoại ngữ đang học. Đó chính là hiện tượng giao thoa văn hoá (giao văn hoá) trong giao tiếp ngôn ngữ. Trong các lớp học ngoại ngữ những nguyên tắc giao văn hoá có những thể hiện sau: - Mục tiêu dạy học là rèn luyện cho người học cả năng lực ngôn ngữ, năng lực văn hoá và năng lực giao văn hoá. Học ngoại ngữ cũng là tiếp cận một nền văn hoá mới, học cách nhận biết môi trường thiên nhiên và xã hội khác, những ứng xử, quan niệm và nhận định khác với mình và dân tộc mình. Nó hướng đến sự thấu hiểu nền văn hoá mới, một nền văn hoá luôn ở trong trạng thái động, giao thoa và tương tác với cả nền văn hoá khác [6, 118]. - Không dừng lại ở chỗ hiểu biết, tính giao văn hóa trong lớp học ngoại ngữ còn thể hiện ở sự trải nghiệm giao văn hoá, ở đó văn hoá nước ngoài không là cái để mà biết, mà còn là “kẻ khác” đặt trong thế giao tiếp, tương tác với người học, thể hiện qua năng lực giao tiếp, sử dụng ngoại ngữ đang học để giao tiếp với người bản ngữ cũng như các hoạt động phù hợp với quy tắc ứng xử của xã hội và văn hoá nước ngoài, và những cảm nhận, nhận định, phê phán có tính chủ kiến của người học đối với những yếu tố thuộc văn hoá nước ngoài, trong thế tương quan với văn hoá mẹ đẻ. - Năng lực giao văn hoá không chỉ chú trọng mối quan hệ giữa người học với văn hoá nước ngoài, mà cả mối quan hệ giữa người học với văn hoá mẹ đẻ. Chính trong tiếp cận với văn hoá nước ngoài, văn hoá đích mà mỗi người ý thức rõ rệt hơn về văn hoá mẹ đẻ, văn hoá gốc. Trong quá trình học ngoại ngữ, những hiểu biết và trải nghiệm về văn hoá nước ngoài góp phần củng cố văn hoá mẹ đẻ, và ngược lại. Hai nền văn hoá đó có thể xem như được đặt trong thế tương quan soi chiếu lẫn nhau. - Tính giao văn hoá có thể được thể hiện trong mọi nội dung, mọi môn học, giáo viên cần phải biết kết hợp năng lực giao tiếp với ý thức, sự thể hiện và trải nghiệm về giao văn hoá của người học. Mỗi ngôn ngữ, mỗi nền văn hoá có những quy luật, chuẩn mực của mình, có điểm tương đồng cũng có điểm khác so với một ngôn ngữ và văn hoá khác. Việc tiếp cận ngoại ngữ trong dạy và học ở mọi khía cạnh, góc độ cần tuân thủ tính khác biệt này và cần khơi gợi cho người học ý thức trong nhận thức và trải nghiệm đối với ngoại ngữ đang học. Cần đan xen những khía cạnh giao văn hoá vào từng giai đoạn, từng nội dung chi tiết của chương trình, từng thao tác lên lớp của giáo viên. 2.3. Mối quan hệ sâu sắc giữa văn hóa và giao tiếp ngôn ngữ thông qua hệ thống giá trị văn hóa. Quan niệm của nhiều nhà ngôn ngữ là văn hóa có một vị trí rất quan trọng và phong phú, song vẫn cần làm sáng tỏ thêm vai trò của yếu tố văn hóa trong quá trình này. Ngôn ngữ vừa là một bộ phận của văn hóa và đồng thời là sự phản ánh của một nền văn hóa. M.Clyne đã nhận xét một cách xác đáng rằng: Ngôn ngữ là sự thể hiện sâu sắc nhất một nền văn hóa, hệ thống giá trị bao gồm cả những giá trị thừa hưởng từ cộng đồng, và có một vai trò to lớn tác động đến cách thức sử dụng không chỉ ngôn ngữ thứ nhất mà cả những ngôn ngữ được tiếp thu sau đó (Dẫn lại theo [5, 33-35]). Khi nói rằng người dạy và người học cần phải có ý thức về văn hoá hay các khác biệt về văn hóa, người ta thường chú trọng đến mặt kiến thức hơn là hệ thống các giá trị văn hóa Có thể thấy rằng các giá trị văn hóa thường hay bị bỏ qua. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh điểm quan trọng là khi dạy cho người học một hệ thống giá trị của ngôn ngữ đích thì mục đích không phải là họ phải chấp nhận hệ thống mới và từ bỏ hệ thống giá trị của mình. Điều cốt yếu là giúp người học hiểu rằng người bản ngữ có thể có một hệ thống giá trị khác và cần phải tôn trọng hệ thống mới đó. Dĩ nhiên, khi giao tiếp trong ngôn ngữ với tư cách là một ngoại ngữ hay ngôn ngữ thứ hai, người học cần phải "chuyển hệ” để có thể thích ứng được với hoàn cảnh mới. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu khác, chỉ khi giao tiếp trong hoàn cảnh một ngôn ngữ quốc tế (như tiếng Anh chẳng hạn), thì hệ thống giá trị mới có một vai trò nhỏ đi. Tuy kiến thức văn hóa là một nội dung thường được đưa vào chương trình dạy tiếng, song chính các giá trị văn hoá mới có vai trò dẫn dắt hành động giao tiếp. Chẳng hạn như người Việt Nam Ti u ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 532 thường coi trọng tính “hòa hợp” và giữ “thể diện” của người giao tiếp. Cho nên, họ thường không thích tham gia vào các tình huống phải giải quyết xung đột, bởi lẽ như vậy là thể hiện sự không tôn trọng đối với người cùng tham gia giao tiếp. Và điều này đã được thể hiện qua một số cách diễn đạt được gọi là “gián tiếp”'. Kết quả các công trình nghiên cứu nhìn nhận giá trị văn hóa như là nội dung ý nghĩa “ẩn” làm cơ sở cho sự hoạt động của ngôn ngữ và đã khẳng định rằng những sự khác biệt về văn hóa trong hệ thống giá trị, có ảnh hưởng tới quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ. Và khái niệm yếu tố văn hóa trong quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ và giảng dạy tiếng cần phải bao hàm nội dung giá trị văn hóa. Công trình nghiên cứu về Dụng học liên văn hóa của GS Nguyễn Quang cũng đã làm rõ thêm về sự tác động của các giá trị văn hóa trong quá trình giao tiếp. Theo Nguyễn Quang, các giá trị như trực tiếp-gián tiếp-lịch sự đã ảnh hưỏng đến việc sử dụng hành động ngôn ngữ “khen và tiếp nhận lời khen trong giao tiếp Việt-Mỹ”. Chúng ta có thể khẳng định, mức độ khó dễ trong học ngoại ngữ hay ngôn ngữ thứ hai tỷ lệ thuận với mức độ khác biệt giữa ngôn ngữ-văn hoá đích và ngôn ngữ-văn hoá nguồn. Càng có nhiều khác biệt giao thoa văn hoá và ngôn ngữ loại hình bao nhiêu thì người học lại càng phải đương đầu với nhiều khó khăn bấy nhiêu. J.C.Richards đã nhận xét thoả đáng rằng: “đối với người sử dụng ngoại ngữ, bất kỳ một cuộc hội thoại với người bản ngữ của một ngôn ngữ đích nào đều là hình thức đương đầu về giao thoa văn hoá”. Ta không thể nói tới sự thành công trong dạy học ngoại ngữ nếu không ý thức đầy đủ những khác biệt giao thoa văn hoá và không đạt tới một mức độ nhất định trong quá trình văn hoá hoá (Dẫn lại theo [9, 173]). Trong quá trình dạy học ngoại ngữ theo đường hướng giao tiếp, qua từng giai đoạn, các yếu tố ngôn ngữ, nhìn chung ngày càng ít nổi trội và các yếu tố văn hoá ngày càng được và cần được quan tâm hơn. Do vậy, việc nghiên cứu và nâng cao nhận thức của người học về những khác biệt giữa văn hoá nguồn và văn hoá đích trong hoạt động giao tiếp là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là các yếu tố văn hoá và ngôn ngữ hoàn toàn không đối lập nhau mà có quan hệ tương tác. Song, trong quá trình dạy học ngoại ngữ, liều lượng của các yếu tố đó thay đổi theo hướng ưu tiên ngôn ngữ sang ưu tiên văn hoá. Sự quan tâm trước tiên của người giáo viên là tạo điều kiện cho cuộc hành trình dọc theo quá trình tiệm tiến văn hoá này và người học nên tự quyết định cái đích cuối cùng cho mình. Những người làm công tác giảng dạy ngoại ngữ không nên tự hạn chế mình trong khuôn khổ hạn hẹp của các cấu trúc ngôn ngữ và khẳng định rằng ta đang phát triển các kỹ năng giao tiếp. Sản phẩm tốt của chúng ta cần là những người không chỉ biết đặt các câu đúng ngữ pháp, mà còn phải biết nói những câu đó với ai, ở đâu và thế nào trong môi trường nội văn hoá hay giao văn hoá. 3. Một số đề xuất Vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải làm gì trước những tác động của giao thoa văn hóa giao tiếp ngôn ngữ trong dạy-học ngoại ngữ? Tình huống lớp học ngoại ngữ cũng là tình huống gặp gỡ, tiếp xúc, giao tiếp giao văn hoá với đầy đủ các đặc trưng của giao tiếp giao văn hoá thực sự, ở đó người học là “cái tôi” tiếp xúc với “đối tượng khác” là ngôn ngữ, văn hoá, văn học nước ngoài, và giáo viên đóng vai trò trung gian, trợ thủ và tổ chức. Sinh viên cũng cần có tâm thế chủ động, có thái độ đúng mức đối với văn hoá nước ngoài, tránh xu hướng thần thánh hoá, lý tưởng hoá văn hoá nước ngoài và sa vào căn bệnh mặc cảm và sùng bái những gì là ngoại lai. Tiếp nhận văn hoá và bản sắc văn hoá: Trước ngôn ngữ và văn hoá nước ngoài, mỗi con người được các học giả văn hoá xem là “người lai văn hoá” và bản sắc văn hoá của mỗi cá nhân được hình thành qua quá trình trải nghiệm, tiếp xúc và tương tác. Nhưng tiếp nhận đến mức nào là hợp lý, đâu là giới hạn cuối cùng chấp nhận được của những ảnh hưởng từ văn hoá nước ngoài? Làm sao để tránh căn bệnh quá ưa chuộng phương Tây về văn hoá mà đã từng cảnh báo? Có không ít người sau một thời gian học ngoại ngữ trong ứng Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 533 xử đã tỏ ra “tây hơn cả tây”, “bảo hoàng hơn cả vua”. Bản lĩnh của mỗi con người là ở chỗ dù tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác, nhiều người thuộc các dân tộc khác, dù ít nhiều có ảnh hưởng trong nhận thức, hiểu biết và ứng xử, nhưng vẫn còn chủ động giữ đươc bản sắc văn hoá riêng. Trong giao tiếp với người nước ngoài, điều cần tinh tế tránh va vấp hơn cả là những điều cấm kỵ trong ứng xử hay hội thoại: hỏi tuổi phụ nữ, hỏi mức lương hay thu nhập cá nhân, hỏi về tình trạng gia đình. Chúng tôi nhận thấy rằng giáo viên ngoại ngữ cần giúp sinh viên tránh càng nhiều càng tốt việc mắc phải hiện tượng tiêu cực gây nên bởi giao thoa văn hóa giao tiếp ngôn ngữ trong khi giao tiếp bằng ngoại ngữ. Việc tránh những lỗi này sẽ giúp quá trình giao tiếp diễn ra suôn sẻ hơn và tạo thuận lợi cho hai đối tác dễ dàng hiểu nhau hơn vì giữa sinh viên và người đối thoại đã tìm được một khối kiến thức văn hóa chung định sẵn tối thiểu được huy động và được tham chiếu để thực hiện tốt quá trình tái hiện, tức là quá trình tiếp nhận, xử lý và tổng hợp thông tin cần trao đổi. Tuy kiến thức văn hóa có một ý nghĩa quan trọng trong việc giao tiếp giao văn hóa cũng như trong giảng dạy tiếng - giúp cho người học hiểu biết thêm về nền văn hóa của thứ tiếng dùng trong giao tiếp hay là đối tượng giảng dạy - song các giá trị văn hóa mới có vai trò quyết định trong việc định hình ngôn ngữ giao tiếp. Để có thể giảng dạy và giao tiếp giao văn hóa một cách thành công, chúng cần phải được đưa vào nội dung dạy tiếng, và ngoài phần kiến thức văn hóa-văn minh ra người giao tiếp cần phái nắm được hệ thống giá trị của ngôn ngữ đích. Và điều hiển nhiên là cần phải có thêm nhiều công trình nghiên cứu khả năng đưa yếu tố văn hóa giá trị này vào tài liệu giảng dạy cũng như làm thế nào có thể áp dụng được giá trị văn hóa trong việc giảng dạy tiếng và giao tiếp liên ngôn ngữ. Từ kinh nghiệm giảng dạy tiếng Nga mà tác giả đã có, một số biện pháp khắc phục được đưa ra như sau: a. Ngay từ giờ học tiếng Nga đầu tiên sinh viên cần được làm quen với văn hóa Nga trong giao tiếp ứng xử cũng như trong ăn, mặc và thể hiện điều này qua giao tiếp bằng ngôn ngữ để tránh sốc về văn hoá khi các các em có điều kiện tiếp xúc, sống với người Nga. Giáo viên cần kiên trì trong việc rèn luyện người học những mẫu câu, lối nói ứng xử theo nghi thức lời nói của người Nga, tạo ra ngữ cảnh sống động, đa dạng, phù hợp để người học tham gia hội thoại với nhau. b. Ngoài năng lực ngôn ngữ, giáo viên còn cần phải có kiến thức sâu rộng, toàn diện về văn hoá, đất nước học của hai dân tộc Việt và Nga. Và giáo viên là người hơn ai hết biết được những hiên tượng giao thoa văn hoá nào đã trở thành trở ngại cho chính mình và sinh viên trong dạy-học để tìm cách khắc phục. c. Trong môi trường phi bản ngữ, dạy-học ngoại ngữ đòi hỏi giáo viên tích cực áp dụng phương pháp nghe-nhìn thường xuyên. Những thước phim về đất nước, con người, văn hóa nghệ thuật cũng như làn điệu dân ca Nga, những bản nhạc Nga bất hủ sẽ là con đường ngắn nhất, tự nhiên nhất và sinh động nhất đưa người học đến với văn hoá Nga. d. Để người học hiểu và nắm vững cách diễn đạt và diễn nghĩa trong giao tiếp giống như cách người bản ngữ và sẽ thực hành trong thực tế công việc sau ngày, chúng ta cần phải thiết kế chương trình thực hành tiếng sao cho trong đó người học được tiếp xúc