Giáo trình An toàn lao động và vệ sinh môi trường

Ngoài các phương tiện bảo vệcá nhân như đã nêu trên, trong thực tếcòn có nhiều loại phương tiện nhưdây an toàn, phao cứu sinh,. cũng được dùng khá phổbiến đểngăn ngừa tai nạn lao động. Trong đó dây an toàn là phương tiện làm cho người lao động yên tâm làm việc ởnơi có độcao, có tốc độ. Dây an toàn còn phục vụ đắc lực cho công trình xây dựng ởtrên cao, cũng vì tính chất công việc nên các loại dây an toàn cần phải có độbền cao đểkhông bịphá huỷvới trọng lượng người lao động khi vô ý trượt ngã trên cao. Dây phải có sựgiảm chấn tốt đểgiảm lực tác dụng khi người lao động bịva đập, dây phải gọn, nhẹvà tiện lợi khi sửdụng, không gây tâm lý khó chịu cho người sửdụng. Bởi vậy trước khi sửdụng, dây an toàn cần phải được kiểm tra chặt chẽ

pdf133 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3321 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình An toàn lao động và vệ sinh môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU I KHOA MÔI TRƯỜNG  GIÁO TRÌNH : AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG Trang 1 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG 1.1. KHÁI NIỆM CHUNG 1.1.1. Điều kiện lao động Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật, kinh tế, tổ chức thể hiện qua quy trình công nghệ, công cụ lao động, đối tợng lao động, môi trờng lao động, con ngời lao động và sự tác động qua lại giữa chúng tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động của con ngời trong quá trình sản xuất. Điều kiện lao động có ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng con người. Những công cụ và phương tiện có tiện nghi, thuận lợi hay ngược lại gây khó khăn nguy hiểm cho người lao động, đối tượng lao động. Đối với quá trình công nghệ, trình độ cao hay thấp, thô sơ, lạc hậu hay hiện đại đều có tác động rất lớn đến người lao động. Môi trường lao động đa dạng, có nhiều yếu tố tiện nghi, thuận lợi hay ngược lại rất khắc nghiệt, độc hại, đều tác động rất lớn đến sức khỏe người lao động. 1.1.2. Các yếu tố nguy hiểm và có hại: Yêú tố nguy hiểm có hại là trong một điều kiện lao động cụ thể, bao giờ cũng xuất hiện các yếu tố vật chất có ảnh hưởng xấu, nguy hiểm, có nguy cơ gây tai nạn hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Cụ thể là: - Các yếu tố vật lý như nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn, rung động, các bức xạ có hại, bụi… - Các yếu tố hoá học như hoá chất độc, các loại hơi, khí, bụi độc, các chất phóng xạ… - Các yếu tố sinh vật, vi sinh vật như các loại vi khuẩn, siêu vi khuẩn, ký sinh trùng, côn trùng, rắn… - Các yếu tố bất lợi về tư thế lao động, không tiện nghi do không gian chổ làm việc, nhà xưởng chật hẹp, mất vệ sinh… - Các yếu tố tâm lý không thuận lợi... 1.1.3. Tai nạn lao động: Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong qúa trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ lao động. Nhiễm độc đột ngột cũng là tai nạn lao động. Tai nạn lao động được phân ra: Chấn thương, nhiễm độc nghề nghiệp và bệnh nghề nghiệp * Chấn thương: Là tai nạn mà kết quả gây nên những vết thương hay huỷ hoại một phần cơ thể người lao động, làm tổn thương tạm thời hay mất khả năng lao động vĩnh viễn hay thậm chí gây tử vong. Chấn thương có tác dụng đột ngột. * Bệnh nghề nghiệp: Là bệnh phát sinh do tác động của điều kiện lao động có hại, bất lợi (tiếng ồn, rung...) đối với người lao động. Bênh nghề nghiệp làm suy yếu dần dần sức khoẻ hay làm ảnh hưởng đến khả năng làm việc và sinh hoạt của người lao động. Bệnh nghề nghiệp làm suy yếu sức khoẻ người lao động một cách dần dần và lâu dài. *Nhiểm độc nghề nghiệp: là sự huỷ hoại sức khoẻ do tác dụng của các chất độc xâm nhập vào cơ thể người lao động trong điều kiện sản xuất 1.2. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA, TÍNH CHẤT CỦA CÔNG TÁC BẢO Trang 2 HỘ LAO ĐỘNG 1.2.1.Khái niệm về bảo hộ lao động: -Bảo hộ lao động là môn khoa học nghiên cứu các vấn đề hệ thống các văn bản pháp luật, các biện pháp về tổ chức kinh tế-xã hội và khoa học công nghệ để cải tiến điều kiện lao động nhằm: • Bảo vệ sức khoẻ, tính mạng con người trong lao động. • Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. • Bảo vệ môi trường lao động nói riêng và môi trường sinh thái nói chung → góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. -Từ khái niệm trên có thể thấy rõ tính pháp lý, tính khoa học, tính quần chúng của công tác bảo hộ lao động luôn gắn bó mật thiết với nhau và nội dung của công tác bảo hộ lao động nhất thiết phải thể hiện đầy đủ các tính chất trên. 1.2.2.Mục đích bảo hộ lao động: - Bảo đảm cho mọi người lao động những điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh, thuận lợi và tiện nghi nhất. - Không ngừng nâng cao năng suất lao động, tạo nên cuộc sống hạnh phúc cho người lao động. - Góp phần vào việc bảo vệ và phát triển bền vững nguồn nhân lực lao động. - Nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người mà trước hết là của người lao động. ⇒ Đây cũng là chính sách đầu tư cho chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.2.3.Ý nghĩa của công tác bảo hộ lao động: Bảo hộ lao động trước hết là phạm trù của lao động sản xuất, do yêu cầu của sản xuất và gắn liền với quá trình sản xuất. Bảo hộ lao động mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người nên nó mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Mặt khác, nhờ chăm lo sức khoẻ của người lao động mà công tác BHLĐ mang lại hiệu quả xã hội và nhân đạo rất cao. BHLĐ là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được trong các dự án, thiết kế, điều hành và triển khai sản xuất. BHLĐ mang lại những lợi ích về kinh tế, chính trị và xã hội. Lao động tạo ra của cải vật chất, làm cho xã hội tồn tại và phát triển. Bất cứ dưới chế độ xã hội nào, lao động của con người cũng là yếu tố quyết định nhất. Xây dựng quốc gia giàu có, tự do, dân chủ cũng nhờ người lao động. Trí thức mở mang cũng nhờ lao động (lao động trí óc) vì vậy lao động là động lực chính của sự tiến bộ loài người . 1.2.4. Tính chất của công tác bảo hộ lao động: BHLĐ Có 3 tính chất chủ yếu là: Pháp lý, Khoa học kỹ thuật và tính quần chúng. Chúng có liên quan mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau. 1.2.4.1. BHLĐ mang tính chất pháp lý: Những quy định và nội dung về BHLĐ được thể chế hoá chúng thành những luật lệ, chế độ chính sách, tiêu chuẩn và được hướng dẫn cho mọi cấp mọi ngành mọi tổ chức và cá nhân nghiêm chỉnh thực hiện. Những chính sách, chế độ, quy phạm, tiêu chuẩn, được ban hành rong Trang 3 công tác bảo hộ lao động là luật pháp của Nhà nước. Xuất phát từ quan điểm: Con người là vốn quý nhất, nên luật pháp về bảo hộ lao động được nghiên cứu, xây dựng nhằm bảo vệ con người trong sản xuất, mọi cơ sở kinh tế và mọi người tham gia lao động phải có trách nhiệm tham gia nghiên cứu, và thực hiện. Đó là tính pháp lý của công tác bảo hộ lao động . 1.2.4.2. BHLĐ mang tính KHKT: Mọi hoạt động của BHLĐ nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm, có hại, phòng và chống tai nạn, các bệnh nghề nghiệp... đều xuất phát từ những cơ sở của KHKT. Các hoạt động điều tra khảo sát phân tích điều kiện lao động, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố độc hại đến con người để đề ra các giải pháp chống ô nhiễm, giải pháp đảm bảo an toàn đều là những hoạt động khoa học kỹ thuật. Hiện nay, việc vận dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào công tác bảo hộ lao động ngày càng phổ biến. Trong quá trình kiểm tra mối hàn bằng tia gamma (γ), nếu không hiểu biết về tính chất và tác dụng của các tia phóng xạ thì không thể có biện pháp phòng tránh có hiệu quả. Nghiên cứu các biện pháp an toàn khi sử dụng cần trục, không thể chỉ có hiểu biết về cơ học, sức bền vật liệu mà còn nhiều vấn đề khác như sự cân bằng của cần cẩu, tầm với, điều khiển điện, tốc độ nâng chuyên... Muốn biến điều kiện lao động cực nhọc thành điều kiện làm việc thoải mái, muốn loại trừ vĩnh viễn tai nạn lao động trong sản xuất, phải giải quyết nhiều vấn đề tổng hợp phức tạp không những phải hiểu biết về kỹ thuật chiếu sáng, kỹ thuật thông gió, cơ khí hoá, tự động hoá... mà còn cần phải có các kiến thức về tâm lý lao động, thẩm mỹ công nghiệp, xã hội học lao động... Vì vậy công tác bảo hộ lao động mang tính chất khoa học kỹ thuật tổng hợp. 1.2.4.3. BHLĐ mang tính quần chúng Tất cả mọi người từ người sử dụng lao động đến người lao động đều là đối tượng cần được bảo vệ. Đồng thời họ cũng là chủ thể phải tham gia vào công tác BHLĐ để bảo vệ mình và bảo vệ người khác. BHLĐ có liên quan đến tất cả mọi người tham gia sản xuất. Công nhân là những người thường xuyên tiếp xúc với máy móc, trực tiếp thực hiện các qui trình công nghệ... do đó họ có nhiều khả năng phát hiện những sơ hở trong công tác bảo hộ lao động, đóng góp xây dựng các biện pháp về kỹ thuật an toàn, tham gia góp ý kiến về mẫu mã, quy cách dụng cụ phòng hộ, quần áo làm việc… Mặt khác dù các qui trình, quy phạm an toàn được đề ra tỉ mỉ đến đâu, nhưng công nhân chưa được học tập, chưa được thấm nhuần, chưa thấy rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của nó thì rất dễ vi phạm. Muốn làm tốt công tác bảo hộ lao động, phải vận động được đông đảo mọi người tham gia. Cho nên BHLĐ chỉ có kết quả khi được mọi cấp, mọi ngành quan tâm, được mọi người lao động tích cực tham gia và tự giác thực hiện các luật lệ, chế độ tiêu chuẩn, biện pháp để cải thiện điều kiện làm việc, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. BHLĐ là hoạt động hướng về cơ sở sản xuất và trước hết là người trực tiếp lao động. Nó liên quan với quần chúng lao động. BHLĐ bảo vệ quyền lợi và hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà, cho toàn xã hội, vì thế BHLĐ luôn mang tính quần chúng sâu rộng. 1.3. NHỮNG NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC BHLĐ Trang 4 Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người. Lao động tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Công tác BHLĐ được thể hiện rõ nét trong Bộ Luật Lao động. Bộ Luật Lao động đã thể chế hoá đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lao động, về sử dụng và quản lý lao động. Bộ Luật Lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo ra được mối quan hệ lao động được hài hoà và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động trí óc và lao động chân tay nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để đạt được những mục tiêu đề ra ở trên và thực hiện đầy đủ ba tính chất của BHLĐ và để phục vụ tốt công tác BHLĐ của Đảng và Nhà nước, BHLĐ phải được thể hiện trong ba nội dung chủ yếu sau: 1.3.1. Nội dung khoa học kỹ thuật Trong các nội dung của công tác BHLĐ thì nội dung khoa học kỹ thuật chiếm một vị trí quan trọng, là phần cốt lõi để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại, cải thiện điều kiện lao động. Khoa học kỹ thuật BHLĐ là lĩnh vực khoa học tổng hợp và liên ngành, được hình thành và phát triển trên cơ sở kết hợp và sử dụng thành tựu các kết quả nghiên cứu từ khoa học tự nhiên đến khoa học kỹ thuật chuyên ngành. Trong thời gian qua, khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, các thành phần kinh tế không ngừng phát triển, đô thị ngày càng nhiều và điều tất yếu xảy ra là ô nhiễm môi trường ngày một nặng nề. Trước tình hình đó, các nhà khoa học đã vào cuộc và liên tục có các phương án, thiết kế, thu giữ và xử lý các ô nhiễm đó. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của khoa học kỹ thuật BHLĐ rất rộng nhưng cũng rất cụ thể, gắn liền với điều kiện khí hậu, đặc điểm tự nhiên và con người cũng như điều kiện sản xuất và trình độ kinh tế. Khoa học kỹ thuật BHLĐ kết hợp chặt chẽ giữa các khâu điều tra khảo sát, nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng và triển khai. Những nội dung nghiên cứu chính của khoa học kỹ thuật BHLĐ gồm các vấn đề vệ sinh lao động, kỹ thuật vệ sinh, kỹ thuật an toàn và phương tiện bảo vệ. Kỹ thuật phòng chống cháy nổ có những tính chất và đặc thù riêng nhưng cũng được coi là bộ phận quan trọng liên quan đến công tác BHLĐ. 1.3.1.1. Khoa học vệ sinh lao động: Trong quá trình lao động, dây chuyền công nghệ dù có hiện đại bao nhiêu thì bụi vẫn phát sinh và hiện tượng rò rỉ khí, các yếu tố độc hại vẫn cứ xảy ra. Bởi vậy, môn khoa học Vệ sinh lao động đi sâu khảo sát, đánh giá các yếu tố nguy hiểm và nghiên cứu sự ảnh hưởng có hại đến sức khoẻ người lao động. Trên cơ sở đó, khoa học Vệ sinh lao động có nhiệm vụ đề ra các tiêu chuẩn giới hạn cho phép của các yếu tố có hại, nghiên cứu và đề ra các chế độ nghỉ ngơi hợp lý và đưa ra được các biện pháp y học và các phương hướng cho các giải pháp để cải thiện điều kiện làm việc và đánh giá hiệu quả của các giải pháp đó với sức khoẻ của người lao động. Khoa học Vệ sinh lao động có nhiệm vụ quản lý và theo dõi sức khoẻ người lao động, sử dụng các kết quả đã nghiên cứu để phát hiện sớm các bệnh nghề nghiệp cho người lao động, đề xuất các biện pháp để phòng ngừa và điều trị. Từ yêu cầu của khoa học vệ sinh lao động, các nhà khoa học phải nghiên cứu các công nghệ mới hơn, Trang 5 hiện đại hơn, đưa ra được các loại thiết bị công nghệ làm việc có hiệu quả và loại trừ các yếu tố có hại ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động. 1.3.1.2. Khoa học về kỹ thuật vệ sinh: Khi khoa học Vệ sinh lao động đã phát hiện và đưa ra được những ảnh hưởng lớn của quá trình công nghệ đến sức khoẻ người lao động thì căn cứ vào từng vấn đề cụ thể, khoa học kỹ thuật vệ sinh sẽ cho ra các thiết bị công nghệ để làm giảm hoặc loại trừ các yếu tố có hại đến dưới mức cho phép, không gây hại cho người lao động. Các ngành về kỹ thuật vệ sinh như thông gió, chống nóng điều hoà không khí, chống bụi và hơi khí độc, chống ồn và rung động, chống các bức xạ có hại, kỹ thuật chiếu sáng,... Đó là những lĩnh vực khoa học của các chuyên ngành đi sâu nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp khoa học kỹ thuật để loại trừ các yếu tố nguy hiểm, độc hại, cải thiện môi trường làm việc, tạo ra điều kiện lao động tốt hơn cho người lao động. Trên cơ sở đó, nâng cao được năng suất lao động và tai nạn lao động giảm đi và các bệnh nghề nghiệp của người lao động cũng ít xuất hiện. Mỗi giải pháp kỹ thuật vệ sinh đều nhằm mục đích cải thiện điều kiện lao động và góp phần giữ gìn môi trường xung quanh. Bởi vậy, BHLĐ và bảo vệ môi trường là hai khâu của một quá trình, gắn bó mật thiết với nhau, hai quá trình đó luôn hỗ trợ nhau ngày càng hoàn thiện hơn. Các quy trình công nghệ và các thiết bị xử lý các yếu tố độc hại đảm bảo an toàn phải phù hợp với trình độ, sức khoẻ của người lao động trong suốt quá trình lao động. 1.3.1.3. Khoa học về kỹ thuật an toàn: Kỹ thuật an toàn là ngành khoa học nghiên cứu các thiết bị công nghệ được đưa vào sử dụng trong lao động sản xuất để loại trừ các yếu tố nguy hiểm. Các hệ thống biện pháp an toàn không ngừng được cải tiến nhằm bảo vệ người lao động tránh được các yếu tố nguy hiểm và có hại, gây chấn thương trong sản xuất. Để đạt được các vấn đề đó, khoa học kỹ thuật an toàn cần đi sâu nghiên cứu và đánh giá tình trạng an toàn của các thiết bị và quá trình sản xuất, đề ra những yêu cầu an toàn khi sử dụng các thiết bị, các cơ cấu an toàn bảo vệ con người khi tiếp xúc với các bộ phận nguy hiểm, tiến hành xây dựng các tiêu chuẩn, quy trình, hướng dẫn nội quy an toàn để buộc người lao động phải chấp hành đầy đủ. Sự hoạt động của các thiết bị an toàn cần phải được theo dõi thường xuyên. Việc áp dụng các thành tựu về tự động hoá, điều khiển học để có thể cách ly người lao động ra xa các vùng nguy hiểm và độc hại là một phương hướng hết sức quan trọng trong Kỹ thuật an toàn. Điều đó sẽ làm cho người lao động an tâm lao động sản xuất. Việc loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại ngay từ khâu thiết kế là một phương hướng tích cực để thực hiện việc chuyển từ “Kỹ thuật an toàn” sang “An toàn kỹ thuật”. 1.3.1.4. Khoa học về phương tiện bảo vệ người lao động: Với các biện pháp vệ sinh lao động, kỹ thuật vệ sinh và các biện pháp kỹ thuật an toàn không loại trừ được hết các yếu tố ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động thì khoa học về các hương tiện bảo vệ người lao động có nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế chế tạo những phương tiện bảo vệ tập thể hoặc cá nhân sử dụng trong sản xuất nhằm chống lại những yếu tố nguy hiểm và có hại. Để có được những phương tiện bảo vệ hiệu quả, chất lượng và có độ thẩm mỹ cao, ngành khoa học về phương tiện bảo vệ đã sử dụng rất nhiều thành tựu của các ngành khoa học, từ vật lý, hoá học, khoa học về vật liệu, mỹ thuật công nghiệp, công nghệ hoá học,... Trang 6 Khi nền kinh tế phát triển nhanh, nhiều ngành kỹ thuật mới ra đời thì ngành sản xuất các phương tiện BHLĐ cũng phát triển theo. Các loại phương tiện bảo vệ cá nhân như mũ bảo vệ đầu, găng tay và ủng chống cháy, mặt nạ lọc hơi khí độc, kính hàn chống bức xạ có hại,... là những thứ tối thiểu cần phải có trong quá trình lao động. 1.3.1.5. Khoa học về ứng dụng: Nhiều ngành khoa học mới ra đời đã được ứng dụng nhiều và có hiệu quả lớn trong BHLĐ. Các ngành khoa học, điện tử, điều khiển, kỹ thuật tin, ... đã được ứng dụng trong khi giải quyết các vấn đề về BHLĐ. Đặc biệt khoa học về Ecgônômi, với tính đa dạng và phong phú của nó đã thâm nhập nhanh chóng vào hầu hết của nội dung BHLĐ. Khoa học Êgônômi đã giúp các nhà thiết kế nghiên cứu, đánh giá và chế tạo ra nhiều thiết bị, công cụ lao động phù hợp với từng dân tộc, Êgônômi đã đi sâu nghiên cứu kích cỡ phương tiện bảo hộ cho từng người lao động, sao cho người lao động có tâm lý làm việc thoải mái, để họ yên tâm sáng tạo trong lao động, cống hiến nhiều nhất cho xã hội về tư duy cũng như về của cải vật chất. Êgônômi đã làm tăng các yếu tố thuận lợi và giảm bớt các yếu tố không thuận lợi cho người lao động, đặc biệt là giảm hoặc làm mất hẳn các yếu tố dễ gây tai nạn và các bệnh nghề nghiệp cho người lao động. 1.3.2. Nội dung xây dựng và thực hiện pháp luật về BHLĐ ở mỗi quốc gia công tác BHLĐ được đưa ra một luật riêng hoặc thành một chương về BHLĐ trong bộ luật lao động, ở một số nước, ban hành dưới dạng một văn bản dưới luật như pháp lệnh điều lệ... Các nhà lý luận tư sản lập luận rằng: “Tai nạn lao động trong sản xuất là không thể tránh khỏi, khi năng suất lao động tăng thì tai nạn lao động cũng tăng lên theo”. Họ nêu lên lý lẽ như vậy nhằm xoa dịu sự đấu tranh của giai cấp công nhân và che dấu tình trạng sản xuất thiếu các biện pháp an toàn. Thực ra, số tai nạn xảy ra hàng năm ở các nước tư bản tăng lên có những nguyên nhân của nó. Chẳng hạn, công nhân phải làm việc với cường độ lao động quá cao, thời gian quá dài, thiết bị sản xuất thiếu các cơ cấu an toàn cần thiết. Nơi làm việc không đảm bảo điều kiện vệ sinh, chưa có chế độ bồi dưỡng thích đáng đối với người lao động v.v... Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, khi người lao động đã được hoàn toàn giải phóng và trở thành người chủ xã hội, lao động đã trở thành vinh dự và nghĩa vụ thiêng liêng của con người. Bảo hộ lao động trở thành chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. ở Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển hệ thống luật pháp chế độ chính sách BHLĐ đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. 1.3.3. Nội dung giáo dục, vận động quần chúng làm tốt công tác BHLĐ Muốn cho các biện pháp khoa học kỹ thuật cũng như các quy định về BHLĐ được thực hiện, trước hết là phải làm cho người lao động nhận thức được họ vừa là đối tượng vận động vừa là chủ thể của hoạt động BHLĐ. Nội dung giáo dục và vận động quần chúng bao gồm tuyên truyền vận động và tổ chức thực hiện. 1.3.3.1. Tuyên truyền vận động: Phải thường xuyên tuyên truyền cho người lao động hiểu được sự cần thiết phải đảm bảo an toàn trong sản xuất, phải nâng cao sự hiểu biết về BHLĐ, phải có hiểu biết về kỹ thuật và thành thạo các công việc để tránh xảy ra tai nạn lao động và bảo vệ quyền lợi lao động của mình. Trang 7 Giáo dục ý thức lao động có kỷ luật, bảo đảm nguyên tắc an toàn, thực hiện nghiêm chỉnh tiêu chuẩn, quy định, nội quy an toàn, chống làm bừa, làm ẩu. Vận động quần chúng phát huy sáng kiến tự cải thiện điều kiện làm việc, biết làm việc với các phương tiện bảo vệ cá nhân. 1.3.3.2. Tổ chức thực hiện: Phải biết tổ chức tốt chế độ tự kiểm tra của các cơ sở sản xuất, duy trì tốt mạng lưới vệ sinh viên hoạt động ở các cơ sở sản xuất. Người sử dụng lao động phải tổ chức học tập, giáo dục, dạy nghề khi tuyển dụng lao động, làm cho họ thấy được công tác BHLĐ mang lại quyền lợi sát thực, nâng cao mức sống của bản thân gia đình họ và sản