Thời tiết là trạng thái vật lý của khí quyển ởmột địa điểm nhất định trong một
khoảng thời gian nhất định và được đặc trưng bởi tập hợp các giá trịcủa các yếu tốkhí
tượng nhưnhiệt độkhông khí, áp suất khí quyển, gió, độ ẩm, mây mưa tại thời điểm
đó. Các yếu tốnày còn được gọi là các yếu tốthời tiết.
Nghiên cứu vềthời tiết và dựbáo thời tiết là nội dung của bộmôn Dựbáo thời
tiết. Dựbáo thời tiết bằng phương pháp dùng bản đồcòn được gọi là Khí tượng học si
nốp. Nói một cách khác, đối tượng nghiên cứu của môn học Khí tượng si nốp chính là
các điều kiện thời tiết và sựbiến đổi của nó trên một phạm vi rộng.
Sựbiến đổi của thời tiết có 2 loại: Biến đổi có chu kỳvà biến đổi không có chu
kỳ.
60 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1886 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Khí tượng biển Chương VI Thời tiết biển Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG VI THỜI TIẾT BIỂN ĐÔNG
6.1 Thời tiết và hình thế thời tiết
Thời tiết là trạng thái vật lý của khí quyển ở một địa điểm nhất định trong một
khoảng thời gian nhất định và được đặc trưng bởi tập hợp các giá trị của các yếu tố khí
tượng như nhiệt độ không khí, áp suất khí quyển, gió, độ ẩm, mây mưa tại thời điểm
đó. Các yếu tố này còn được gọi là các yếu tố thời tiết.
Nghiên cứu về thời tiết và dự báo thời tiết là nội dung của bộ môn Dự báo thời
tiết. Dự báo thời tiết bằng phương pháp dùng bản đồ còn được gọi là Khí tượng học si
nốp. Nói một cách khác, đối tượng nghiên cứu của môn học Khí tượng si nốp chính là
các điều kiện thời tiết và sự biến đổi của nó trên một phạm vi rộng.
Sự biến đổi của thời tiết có 2 loại: Biến đổi có chu kỳ và biến đổi không có chu
kỳ.
Biến đổi có chu kỳ là sự biến đổi có sự lặp đi lặp lại của các yếu tố thời tiết, như
các dạng biến trình ngày của nhiệt độ, khí áp, độ ẩm...
Biến đổi không có chu kỳ là sự biến đổi không có quy luật của điều kiện thời tiết,
như sự biến tính của các khối không khí.
6.1.1 Các công cụ phân tích và dự báo thời tiết
1) Các loại bản đồ thời tiết
Bản đồ thời tiết cho phép ta hình dung sự phân bố các yếu tố khí tượng trên phạm vi
rộng lớn, xác định thời tiết hiện tại; phân tích và dự báo về sự xuất hiện và phát triển của
các đối tượng si nốp, tức là dự báo hình thế si nốp và từ đó dự báo điều kiện thời tiết
trong tương lai. Như vậy, các bản đồ thời tiết là công cụ cơ bản để phân tích và dự báo
thời tiết.
Bản đồ thời tiết cho phép ta hình dung sự phân bố các yếu tố khí tượng trên
phạm vi rộng lớn, xác định thời tiết hiện tại; phân tích và dự báo về sự xuất hiện và
phát triển của các đối tượng si nốp.
Để có được bản đồ thời tiết, người ta sử dụng một loại bản đồ gọi là bản đồ trống.
Bản đồ trống là bản đồ địa lý, đảm bảo các yêu cầu sau đây:
- Không bị biến dạng về hình thù địa hình, ít thay đổi về tỷ lệ xích ở các vùng quan
trọng, phản ảnh được phép chiếu gần nhất của quả đất thực.
- Kích thước của bản đồ thời tiết không quá lớn, hoặc quá bé, song phải bao gồm đầy
đủ toàn bộ lãnh thổ một vùng rộng lớn. Có đầy đủ các đường phân giới, các vị trí đài trạm
khí tượng, có thước gradien để xác định vận tốc gió theo sự phân bố áp suất.
- Các bản đồ trống được dùng ở Việt Nam thông thường là: Bản đồ Âu á có tỷ lệ:
1/200.000.000 và bản đồ Biển Đông có tỷ lệ: 1/7.500.000.
Sử dụng các bản đồ trống, người thiết lập được các bản đồ thời tiết bao gồm: bản
đồ mặt đất và các bản đồ trên cao
a) Bản đồ mặt đất
Dùng bản đồ trống, điền các số liệu quan trắc ở mặt đất vào vị trí của các trạm quan
trắc ta được bản đồ mặt đất. Các số liệu về các yếu tố khí tượng được điền trên bản đồ
mặt đất bao gồm: nhiệt độ, áp suất khí quyển (đã quy về mực nước biển), độ ẩm, lượng
dd
và dạng mây, độ cao chân mây, biến áp, tầm nhìn xa và các hiện tượng thời tiết. Như vậy,
bản đồ mặt đất cho ta thấy điều kiện thời tiết ở mặt đất.
Lược đồ điền bản đồ mặt đất như sau (hình 6-1):
TsTs CH
TT CM Hs hs PPP
WW
aPP
VV CL H W
TdTd Hs hs RR
Hình 6-1
Trong đó:TT, TsTs, TdTd: nhiệt độ, nhiệt độ cực trị, điểm sương;
PPP, aPP: áp suất, biến áp 3 giờ;
WW, W: hiện tượng thời tiết lúc quan trắc, giữa 2 kỳ quan trắc;
RR: mưa trong 12 giờ;
VV: tầm nhìn ngang;
N: lượng mây;
CH, CM, CL: dạng mây tầng cao, trung bình, dưới;
h, hs hs: các độ cao chân mây;
dd: hướng và tốc độ gió.
b) Bản đồ cao không
Như chúng ta đã biết, cơ sở lý thuyết để thiết lập các bản đồ cao không (bản đồ
hình thế khí áp) là dựa vào công thức khí áp dưới dạng địa thế vị đã được trình bày
trong tĩnh học khí quyển. Trong nghiệp vụ khí tượng, người ta dùng các bản đồ trống
điền các yếu tố khí tượng quan trắc được ở các độ cao khác nhau của tầng khí quyển ta
được các bản đồ trên cao.
Có 2 loại bản đồ trên cao:
- Bản đồ hình thế khí áp tuyệt đối gọi tắt là bản đồ AT: AT850, AT700, AT500…;
- Bản đồ hình thế khí áp tương đối gọi tắt là bản đồ OT: thường dùng bản đồ
500
1000OT .
* Bản đồ AT: Đây là bản đồ hình thế khí áp tuyệt đối, trên đó điền các yếu tố khí
tượng quan trắc được trên mặt đẳng áp nào đó. Trên các bản đồ này ta vẽ các đường
đẳng cao trên mặt đẳng áp và biểu diễn các đặc trưng thời tiết trên một mặt đẳng áp
đó. Ví dụ: bản đồ AT850, AT700,... là bản đồ hình thế khí áp tuyệt đối trên mặt đẳng
áp 850 và 700 mb.
N
dd
dd
Lược đồ điền bản đồ AT như sau (hình 6-2):
TT HHH
Td Td ΔH24
f f
Hình 6-2
Trong đó: TT, TdTd: nhiệt độ, điểm sương;
HHH, ΔH24: độ cao địa thế vị, biến cao 24 giờ;
f f: độ ẩm;
dd: hướng và tốc độ gió.
* Bản đồ OT: Đây là bản đồ hình thế khí áp tương đối, trên đó điền các giá trị độ
cao địa thế vị tương đối giữa 2 mặt đẳng áp, như đã nói ở trên, trong tác nghiệp dự báo
thời tiết, thông thường người ta sử dụng 5001000OT . Bản đồ này biểu thị độ dày giữa 2 mặt
đẳng áp và đặc trưng cho trường nhiệt độ trung bình giữa 2 mặt đẳng áp.
Lược đồ điền bản đồ OT như sau (hình 6-3):
HoHoHo
ΔHo24
Hình 6-3
Trong đó: HoHoHo, ΔHo24: độ dày, biến cao 24 giờ;
dd: hướng và tốc độ gió.
2) Các mặt cắt thẳng đứng
a) Mặt cắt thẳng đứng theo thời gian
Mặt cắt thẳng đứng theo thời gian là một loại đồ thị biểu điễn sự thay đổi của các
yếu tố khí tượng theo thời gian tại 1 địa điểm ở các độ cao khác nhau.
Ví dụ: Sự thay đổi của gió ở độ cao nào đó theo thời gian (hình 6-4).
z (lnP)
t
Hình 6-4
b) Mặt cắt thẳng đứng theo không gian
N
Mặt cắt thẳng đứng theo không gian cũng là một loại đồ thị cho biết sự biến thiên
của yếu tố thời tiết đồng thời xảy ra ở các độ cao khác nhau trên phạm vi cần dự báo.
Ví dụ: diễn biến gió trong khu vực dự báo (hình 6-5).
z (lnP)
Lạng sơn Hà Nội Huế Sài Gòn
Hình 6-5
3) Các bản đồ đặc trưng phụ
a) Bản đồ các hiện tượng thời tiết nguy hiểm
Bản đồ các hiện tượng thời tiết nguy hiểm bao gồm các bản đồ về bão, bão cát,
sương mù dày, dông, băng kết...
b) Bản đồ đặc trưng phụ ở mặt đất
Lược đồ điền bản đồ đặc trưng phụ ở mặt đất như sau (hình 6-6):
Trong đó:
TTmax: nhiệt độ tối cao
S
TTmin: nhiệt độ tối thấp
TgTg: nhiệt độ tối thấp mặt đất
TTmax
RRđêm
TTmin
RRngày
E: trạng thái mặt đất TgTg E
RR: mưa đêm, mưa ngày
Hình 1-6
6.1.2 Kiểm tra và sửa chữa số liệu đo đạc
Trước khi xem xét phân tích bản đồ phải xem xét, kiểm tra các số liệu si nốp đã
ghi trên bản đồ để kịp thời sửa chữa các sai sót, từ đó tránh được những sai lầm trong
phân tích dự báo. Các sai sót số liệu si nốp có thể bao gồm sai sót có hệ thống và sai
sót đột xuất.
1) Sai sót có hệ thống
Sai sót có hệ thống là các sai sót được lặp đi lặp lại nhiều lần ở một trạm nên dễ
nhận thấy khi so với các trạm xung quanh do sự chênh lệch quá lớn về gía trị của cùng
loại các yếu tố khí tượng.
Nguyên nhân gây nên sai sót hệ thống có thể do máy hỏng, độ cao trạm sai, hoặc
năng lực của quan trắc viên.
Phương pháp sửa chữa: cần xác định đúng nguyên nhân gây sai sót và dựa vào số
liệu các trạm xung quanh để sửa chữa.
2) Sai sót đột xuất
Những sai sót còn lại thuộc sai sót đột xuất. Phát hiện sai số đột xuất bằng cách
đối chiếu với các trạm trên cơ sở tính hợp lý của các yếu tố khí tượng, đối chiếu quan
hệ giữa các yếu tố thời tiết của mỗi trạm.
Nguyên nhân gây sai sót đột xuất có thể là do quan trắc không tốt, mã điện dịch
sai,...
Phương pháp sửa chữa: chỉ được sửa chữa khi đã tìm rõ nguyên nhân sai sót. Tuyệt
đối không vội gạch bỏ một cách vội vàng làm ảnh hưởng đến quá trình phân tích bản đồ
và dự báo thời tiết.
6.1.3 Phân tích và dự báo hình thế si nốp
Người ta gọi hình thế si nốp là một tập hợp các quá trình khí quyển đã được phản
ánh trên các bản đồ thời tiết.
Phân tích hình thế si nốp tức là khảo sát các điều kiện thời tiết trên một vùng nào
đó, vạch ra các quy luật biến thiên của nó và chuẩn bị lập luận cho dự báo thời tiết tiếp
theo.
Dự báo hình thế si nốp tức là dự báo sự di chuyển và tiến triển của các khối không
khí, các front khí quyển, các tổ chức xoáy thuận, xoáy nghịch... đưa tới thành lập được
bản đồ thời tiết trong tương lai (thông thường là lập cho 1 ngày hoặc 2 ngày tiếp theo).
Phân tích và dự báo hình thế si nốp là cơ sở của việc dự báo các điều kiện thời tiết
trong miền này hay miền khác. Do vậy, để tiến hành dự báo yếu tố cho tốt chúng ta
hãy làm tốt công tác phân tích và dự báo hình thế si nốp.
1) Phân tích hình thế si nốp
Để tiến hành phân tích si nốp người ta căn cứ vào các qui luật tiến triển của các
yếu tố thời tiết và dựa vào nguyên tắc chủ yếu là “tổng hợp - đối chiếu”. Nguyên tắc
tổng hợp - đối chiếu nhằm đảm bảo tính hợp lý cho mối tương quan giữa các qúa trình,
các hiện tượng thời tiết trong không gian và theo thời gian, đồng thời cũng loại bỏ
được những sai sót trong quan trắc hoặc điền đồ. Có thể tóm tắt nguyên tắc phân tích
si nốp như sau:
- Đối chiếu các số liệu thời tiết cùng kỳ quan trắc của nhiều trạm.
- Đối chiếu các số liệu thời tiết khác nhau trên cùng một trạm.
- Đối chiếu các các số liệu thời tiết của từng trạm vào những kỳ quan trắc khác
nhau.
Phải chú ý nhiều tới các đới front bởi vì ở đó, trong quá trình phát triển của thời
tiết, có thể xảy ra những thay đổi lớn cả về chất lẫn về lượng. Ngoài ra còn phải lưu
tâm đến bão, dải hội tụ nhiệt đới, xoáy thuận...
Các kết luận rút ra được trong khi phân tích si nốp phải có cơ sở vật lý chắc chắn.
Các hiện tượng thời tiết xảy ra ở các khu vực lân cận không được mâu thuẫn với nhau.
Ví dụ:
+ Tại A xác định được một front lạnh đang đến gần và bản tin thời tiết ở đó cho
thấy có mây Ac sau đó xuất hiện Cb và cho mưa rào... thì khả năng front lạnh đến A
càng chắc chắn.
+ Khi so sánh 2 bản đồ ở 2 kỳ quan trắc nối tiếp nhau thấy front đó đi được một
đoạn dài mà giữa 2 kỳ đó gió mặt đất và trên cao không mạnh thì cần phải xem lại ! Khi
đó, hoặc là vị trí front ở kỳ trước vẽ sai hoặc là front kỳ sau ở đây có thể là một front
mới xuất hiện.
Như vậy, khi phân tích hình thế si nốp chúng ta phải phân tích thật tỷ mỉ bản chất
vật lý của hiện tượng, tính đến ảnh hưởng của điều kiện địa phương, tìm ra trình tự
lịch sử của quá trình khí quyển để rút ra kết luận cho xác đáng. Khi gặp sai sót, tuỳ
theo mức độ để sửa chữa; song đại đa số phải thay đổi cơ sở quá trình, tức là lập lại
trình tự quá trình. Phải nêu được kiến trúc không gian của các quá trình khí quyển.
Muốn vậy, dự báo viên phải khảo sát kết hợp tất cả các số liệu (mặt đất, trên cao, giản
đồ cao không...) qua đó hình dung được quá trình khí quyển trong không gian.
Công tác phân tích hình thế si nốp bao gồm nhiều việc có liên quan mật thiết với
nhau được trình bày dưới đây.
a) Vẽ và phân tích bản đồ mặt đất
Vẽ và phân tích bản đồ mặt đất là công việc phức tạp nhất. Do vậy, trước khi phân
tích cần nắm được những trình tự xảy ra trước đó và giải thích được chúng. Ngoài ra
phải nắm chắc được những quy luật cơ bản trong sự phân bố địa lý của các yếu tố khí
tượng, nhất là trên toàn bộ khu vực của bản đồ dự báo.
Nội dung phân tích bản đồ mặt đất bao gồm:
- Xem khái quát bản đồ: Xem khái quát bản đồ giúp dự báo viên có một cách nhìn
chung trước khi phân tích bản đồ và bao gồm các công việc sau đây:
+ Xác định vùng nào trời quang, âm u; vùng nào có mưa, sương mù; phác họa
sơ bộ vị trí xoáy thuận, xoáy nghịch.
+ Làm nổi bật các hiện tượng thời tiết bằng cách dùng bút chì mầu tách ra các
vùng có giáng thuỷ (mầu xanh), vùng có sương mù (mầu vàng) và các vùng có các
hiện tượng khác (mầu xanh lục).
- Vẽ và phân tích front: Vẽ và phân tích front là một khâu rất phức tạp, phụ thuộc
khá nhiều vào yếu tố chủ quan của những người làm dự báo. Ngay cả những dự báo
viên có kinh nghiệm lâu năm cũng có thể vẽ khác nhau về chi tiết. Nhưng về cơ bản để
vẽ và phân tích chính xác front các dự báo viên cần phải dựa vào các dấu hiệu sau đây:
+ Front nằm dọc theo trục rãnh khí áp, rãnh càng rõ thì front càng hiện rõ.
+ Dọc theo đường front quan sát thấy đường dòng hội tụ, tức là: nếu kéo dài
hướng gió ở 2 phía front thì chúng cắt nhau.
+ Qua front có sự thay đổi đột ngột của các yếu tố khí tượng đặc biệt là nhiệt độ
(có thể chênh nhau tới 5 đến 100) .
+ Biến áp ΔP của 2 bên front ngược nhau: trước front khí áp giảm (ΔP < 0), sau
front khí áp tăng (ΔP > 0).
+ Hệ thống ngưng, đông kết và nước rơi khí quyển (mây và mưa) đặc trưng cho
front sắp xếp dọc theo các đường front.
Các dấu hiệu nêu trên có mối liên hệ mật thiết với nhau cùng với sự tồn tại của
front. Tuy nhiên, chỉ khi front thể hiện rõ mới quan sát thấy tồn tại đồng thời và biểu
hiện rõ các dấu hiệu trên; còn đối với các front mờ thì một phần các dấu hiệu đó bị mờ
hoặc mất hẳn.
Ngoài ra, để xác định front một cách chính xác ta cần phải chú ý đến tính ba chiều
của front thể hiện trên bản đồ hình thế khí áp AT và OT: những chỗ nào có front thì
đường đẳng cao ở đó dày xít, front ở mặt đất không trùng front trên cao, mặt front có
độ nghiêng...
Nhờ sự tồn tại khách quan của front trong tầng đối lưu: không xuất hiện và không
biến mất một cách đột ngột, nên ta có thể theo dõi một front trên bản đồ thời tiết kế
tiếp nhau được dễ dàng, tức là xác định được hướng di chuyển và mức độ tiến triển
của nó, cụ thể:
+ Hướng di chuyển, vị trí tương quan của front giữa các khối không khí và sự
phân bố trường biến áp và thời tiết cho ta xác định được loại của front.
+ Front mạnh lên khi: sự tương phản nhiệt độ tăng nhanh; độ ẩm không khí lớn;
sự hội tụ của các dòng không khí ở mặt đất gần front tăng lên; tầng kết của không khí
nóng không ổn định; chuyển động đi lên của không khí nóng xuất hiện: lượng mây
tăng, giáng thủy xuất hiện và mạnh lên, tầm nhìn xa kém đi...
Ngoài việc sử dụng các bản đồ thời tiết kế tiếp nhau chúng ta còn phải tuân theo
tính liên tục lịch sử của việc phân tích bản đồ thời tiết.
- Vẽ các đường đẳng áp: Sau khi xác định front xong, ta vẽ hệ thống các đường
đẳng áp. Nếu khó nhận ra front hoặc cần xác định gấp các trung tâm, các cơ cấu khí áp
thì ta có thể vẽ các đường đẳng áp ở khu vực đó trước. Khi vẽ các đường đẳng áp cần
chú ý các nguyên tắc sau:
+ Các đường đẳng áp vẽ cách nhau 5 mb trên bản đồ chính; 2,5 mb trên bản đồ
khu vực (Bản đồ Âu - á: cách 5 mb; Bản đồ Biển Đông: cách 2 mb).
+ Các đường đẳng áp vẽ trơn không gấp khúc. Nếu không có gì cần thiết thì vẽ
xong đường này mới chuyển sang vẽ đường khác. Qua front đường đẳng áp uốn từ từ;
ở vùng núi đường đẳng áp có thể biểu thị bằng các đường răng cưa.
+ Các đường đẳng áp phải tuân theo định luật khí áp của gió: ở mặt đất đường
đẳng áp lệch với hướng gió chừng 300, chỗ nào gió mạnh hơn thì đường đẳng áp dày
hơn.
+ Những vùng không có số liệu thì phải nội suy.
+ Các đường đẳng áp tuyệt nhiên không được cắt nhau và điểm cuối các đường
đẳng áp ở đầu mép bản đồ xếp thành một hàng cho dễ nhìn.
- Vẽ các đường đẳng biến áp: Từ các giá trị biến áp (ΔP3h, ΔP6h, ... , ΔP24h), có
thể phân tích và vẽ các trường biến áp tương ứng. Với trường biến áp 3h, ta có các ổ
biến áp 3 giờ; với trường biến áp 6h, ta có các ổ biến áp 6 giờ... Các đường đẳng biến
áp vẽ cách nhau 1 mb.
Tuy nhiên, để đáp ứng kịp thời thì giai đoạn đầu có thể chỉ vẽ các đường đẳng
biến áp ở các khu vực quan trọng, các vùng còn lại có thể vẽ sau.
- Kiện toàn bản đồ: Kiện toàn bản đồ là bước sửa chữa hoàn chỉnh tất cả các bước
phân tích đã được tiến hành nêu ở trên, cụ thể:
+ Sửa chữa hoàn chỉnh hệ thống các đường đẳng áp bằng bút chì đen, đề trị số
cho các đường đẳng áp; ghi chữ (C) vào các trung tâm áp cao và chữ (T) vào các trung
tâm áp thấp, đánh dấu hướng di chuyển của chúng.
+ Vẽ các đường front bằng chì mầu theo quy định.
+ Tô vùng có giáng thuỷ, có sương mù bằng chì mầu tương ứng.
+ Vẽ hoàn chỉnh hệ thống các đường đẳng biến áp bằng chì đen đứt đoạn.
+ Kiểm tra lại toàn bộ và ký tên vào bản đồ.
Một số ký hiệu để phân tích bản đồ thời tiết
Hiện tượng Ký hiệu Dạng front Ký hiệu
Mưa • Front nóng
Mưa rào ∇ Front lạnh
Mưa phùn Front tĩnh
Mưa đá Δ Front cố tù
Tuyết Front cố tù nóng
Sương mù ≡ Front cố tù lạnh
Mù khô ∞ Front nóng phụ
Sương muối Front lạnh phụ
Dông Front nóng trên
cao
Tố Front lạnh trên cao
Vòi rồng ][
Chú ý rằng: Trong khi phân tích si nốp cần tìm ra các sai sót trên bản đồ, phân
tích một cách cụ thể trường hợp sai sót, nguyên nhân từng khâu sai sót để sửa chữa.
b) Vẽ và phân tích bản đồ thời tiết trên cao
* Vẽ và phân tích bản đồ AT:
Bản đồ hình thế khí áp tuyệt đối AT được thiết lập với nhiều mực đẳng áp khác
nhau: AT850 , AT700 , AT500... (tương đương với độ cao khoảng chừng 1,5 km, 3
km, 5 km…).
Khi phân tích các bản đồ này chúng ta lưu ý đến đặc điểm của trường khí áp và
gió trên cao, sự phân bố nhiệt và ẩm riêng, vị trí của các front khí quyển và tính chất
biến thiên của trường khí áp trên cao theo thời gian.
Trình tự phân tích một bản đồ AT như sau:
- Vẽ đường đẳng cao: Hệ thống các đường đẳng cao được vẽ bằng bút chì mầu
đen cách nhau 4 damdtv để tương ứng với hệ thống các đường đẳng áp vẽ cách nhau
5mb trên bản đồ mặt đất (H1000 = 0,8 (P0 – 1000) damđtv). Khi vẽ cần lưu ý các điểm
sau:
+ Lựa sao cho hướng gió gần như tiếp tuyến với đường đẳng cao, chỗ nào gió
mạnh đường đẳng cao xít hơn và ngược lại. ở vùng núi các đường đẳng cao cũng có
thể xít và cong lại nhiều hơn.
+ Tại vùng vĩ độ thấp, ở miền núi, trong các vùng hội tụ hoặc phân kỳ thì
hướng gió và đường đẳng cao có thể chênh lệch đáng kể do tình hình không ổn định
của không khí.
Họ các đường đẳng cao này cho ta biết sự phân bố khí áp ở trên cao. Với các
tâm cao trên bản đồ hình thế khí áp tuyệt đối AT ghi chữ “ C ” (mầu xanh), với tâm
thấp ghi chữ “ T ” (mầu đỏ).
- Vẽ đường đẳng nhiệt: Hệ thống các đường đẳng nhiệt được vẽ bằng bút chì đỏ
cách nhau 20 hoặc 40. Trên các bản đồ AT nói chung xu thế các đường đẳng nhiệt gần
tương tự như xu thế các đường đẳng cao. Hệ thống các đường đẳng nhiệt tạo thành các
tâm nóng và tâm lạnh. Tâm nóng đề chữ “ N ” (mầu đỏ); tâm lạnh đề chữ “ L ” (mầu
xanh).
- Ngoài ra: Người ta còn vẽ các đường đẳng ẩm riêng qua 1, 2, 4, 6 g/kg và đề chữ
“ẩm” và “KHÔ” vào trung tâm tương ứng của nó; xác định front trên bản đồ AT850;
vẽ hệ thống các đường đẳng biến cao ΔH qua 2 damđtv và ghi chữ (T) và chữ (G) vào
các trung tâm tăng và giảm của nó; chấm vị trí các trung tâm khí áp ở mặt đất; ghi
hướng di chuyển của xoáy thuận xoáy nghịch trong 12 h đã qua trên bản đồ AT700.
Cần lưu ý rằng đối với các bản đồ ở các mực cao hơn khi phân tích cần thận trọng:
Ví dụ: trên bản đồ AT300, AT200 phải lưu ý đến vị trí của các dòng chảy xiết, đặc
biệt là những nơi có tốc độ gió mạnh khác thường.
* Vẽ và phân tích bản đồ 5001000OT
Bản đồ hình thế khí áp tương đối OT thường dùng trong dự báo thời tiết là bản đồ
500
1000OT , tức là bản đồ phản ánh sự phân bố độ dày giữa 2 mặt đẳng áp 1000 mb và 500
mb.
Hệ thống các đường đẳng độ dày được vẽ bằng bút chì mầu đỏ cách nhau 4
damđtv phản ánh sự phân bố nhiệt độ trung bình giữa hai mặt đẳng áp 1000 và 500
mb. Người ta ghi chữ nóng (N) mầu đỏ vào trung tâm nơi có giá trị độ dày giữa hai
mặt đẳng áp cao và ghi chữ lạnh (L) mầu xanh vào trung tâm nơi có giá trị độ dày giữa
hai mặt đẳng áp thấp.
Bản đồ OT cho phép ta phân tích đối với một lớp khí quyển nhất định về: vị trí
của các khối không khí nóng lạnh, sự phân bố của gió nhiệt và sự biến thiên của
trường nhiệt độ trung bình theo thời gian.
c) Tổng hợp phân tích bản đồ mặt đất và bản đồ trên cao
Sau khi đã có được các bản đồ mặt đất và bản đồ trên cao qua các bước phân tích
trên; để nâng cao độ chính xác của phép phân tích và nắm được toàn bộ quá trình khí
quyển ta phải tổng hợp phân tích cả hai loại bản đồ này.
Tổng hợp phân tích các loại bản đồ này chủ yếu là để:
- Nắm vững cấu trúc không gian của các cơ cấu khí áp: về