Giáo trình môn kinh tế chính trị

Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX trên cơ sở nhu cầu phát triển cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và đã trở thành biểu hiện về mặt lý luận những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cương lĩnh đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một chuyển biến cách mạng vĩ đại trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và xã hội. Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã thực hiện một kỳ công khoa học trong những lĩnh vực tri thức loài người như: triết học, kinh tế chính trị học, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, v. v và đã xây dựng được một khoa học thực sự cách mạng có nhiệm vụ không những phải giải thích thế giới một cách đúng đắn, mà còn phải thay đổi thế giới đó. Theo V.I.Lênin, học thuyết của Mác đã đem lại cho con người một thế giới quan hoàn chỉnh. Nó có sức mạnh toàn năng, bởi vì nó đúng. Cái chính trong chủ nghĩa Mác là luận chứng về vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người xây dựng xã hội cộng sản không có giai cấp. Chủ nghĩa cộng sản khoa học - một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành chủ nghĩa Mác đã được luận chứng một cách sâu sắc trong kinh tế chính trị học do Mác xây dựng nên, nó đã phát hiện những quy luật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đã chứng minh rằng xã hội xã hội chủ nghĩa tất yếu sẽ thay thế cho xã hội tư bản chủ nghĩa. Cơ sở lý luận triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa Mác phát triển với tư cách là một học thuyết sinh động và sáng tạo trái ngược với chủ nghĩa giáo điều. Nó tìm thấy sức mạnh sáng tạo của mình trong thực tiễn cách mạng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã không ngừng phát triển học thuyết của mình, làm cho nó phong phú thêm bằng những luận điểm mới, kiểm tra sự đúng đắn của chúng trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và các thành tựu khoa học mới.

doc126 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình môn kinh tế chính trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1 CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA MÁC Khái niệm chủ nghĩa Mác – Lênin Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX trên cơ sở nhu cầu phát triển cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và đã trở thành biểu hiện về mặt lý luận những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cương lĩnh đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một chuyển biến cách mạng vĩ đại trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và xã hội. Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã thực hiện một kỳ công khoa học trong những lĩnh vực tri thức loài người như: triết học, kinh tế chính trị học, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, v. vvà đã xây dựng được một khoa học thực sự cách mạng có nhiệm vụ không những phải giải thích thế giới một cách đúng đắn, mà còn phải thay đổi thế giới đó. Theo V.I.Lênin, học thuyết của Mác đã đem lại cho con người một thế giới quan hoàn chỉnh. Nó có sức mạnh toàn năng, bởi vì nó đúng. Cái chính trong chủ nghĩa Mác là luận chứng về vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người xây dựng xã hội cộng sản không có giai cấp. Chủ nghĩa cộng sản khoa học - một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành chủ nghĩa Mác đã được luận chứng một cách sâu sắc trong kinh tế chính trị học do Mác xây dựng nên, nó đã phát hiện những quy luật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đã chứng minh rằng xã hội xã hội chủ nghĩa tất yếu sẽ thay thế cho xã hội tư bản chủ nghĩa. Cơ sở lý luận triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa Mác phát triển với tư cách là một học thuyết sinh động và sáng tạo trái ngược với chủ nghĩa giáo điều. Nó tìm thấy sức mạnh sáng tạo của mình trong thực tiễn cách mạng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã không ngừng phát triển học thuyết của mình, làm cho nó phong phú thêm bằng những luận điểm mới, kiểm tra sự đúng đắn của chúng trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và các thành tựu khoa học mới. V.I.Lênin đã kế tục sự nghiệp của C.Mác, áp dụng phép biện chứng mác-xít vào việc phân tích những hiện tượng của thời đại lịch sử mới, tiếp tục sự phân tích chủ nghĩa tư bản của Mác, đã sáng tạo học thuyết về giai đoạn đế quốc chủ nghĩa của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã phát triển lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa và đã đi đến kết luận về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đầu tiên ở một nước hoặc một số nước Với những đóng góp to lớn của Người vào lý luận của C.Mác mà học thuyết này được gọi là chủ nghĩa Mác - Lênin. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học của C.Mác, Ph. Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, tổng kết các thành tựu của khoa học và thực tiễn thời đại; là thế giới quan, phương pháp luận cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản, thống nhất biện chứng với nhau, đó là: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Triết học Mác - Lênin là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Kinh tế chính trị học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong quá trình chuyển biến này. Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống khoa học thống nhất về con đường, biện pháp, lực lượng thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, giải phóng xã hội và tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người. 2. Những điều kiện, tiền đề lịch sử của sự ra đời chủ nghĩa Mác a) Điều kiện kinh tế - xã hội Từ những năm giữa thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng cuộc cách mạng công nghiệp. Nhờ vậy, tính hơn hẳn của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ phong kiến được thể hiện một cách rõ nét. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã nhận định: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơnvà đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t4.tr.603. . Xuất phát từ quá trình chuyển nền sản xuất thủ công nghiệp sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa cũng đã làm xuất hiện giai cấp vô sản hiện đại - là con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt, đặc biệt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản tiêu biểu như: khởi nghĩa của công nhân ở Lion (Pháp) năm 1831,1834; phong trào Hiến chương (Anh) 1835- 1848, khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức) năm 1844,v.vGiai cấp vô sản đã trở thành lực lượng chính trị độc lập. Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là phải có lý luận khoa học soi đường, dẫn dắt. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng đòi hỏi khách quan đó, đồng thời chính thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân cũng trở thành thực tiễn cho sự khái quát lý luận chủ nghĩa Mác. b) Tiền đề lý luận Chủ nghĩa Mác ra đời là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó, trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Với triết học cổ điển Đức, C.Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa có phê phán tính chất duy tâm, thần bí phép biện chứng của Ph.Hêghen để xây dựng phép biện chứng duy vật – công cụ vĩ đại của nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Phê phán tính chất siêu hình, nhân bản và kế thừa thế giới quan duy vật trong triết học của L.Phoiơbắc, hai ông đã xây dựng thành công thế giới quan duy vật biện chứng - thế giới quan của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kinh tế chính trị học cổ điển Anh với những đại biểu của nó là A.Xmit và D.Ricácđô, những người có công lao to lớn trong việc xây dựng lý luận về giá trị của lao động, về nguồn gốc của lợi nhuận, về tính chất quan trọng hàng đầu của quá trình sản xuất vật chấtkhắc phục các nhược điểm của nó như những biểu biện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, bản chất bóc lột của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, Chủ nghĩa xã hội không tưởng với các đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông, S.Phuriê, Ôoen, mặc dù thể hiện đậm nét tinh thần nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản trên cơ sở vạch trần cảnh khốn cùng cả về vật chất lẫn tinh thần của người lao động, dự đoán về những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai, nhưng không luận chứng được một cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mác và Ăngghen đã cải tạo có phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp đưa chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học. c) Tiền đề khoa học tự nhiên Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận, những thành tựu khoa học tự nhiên cũng là những tiền đề luận cứ hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác trong đó có ba phát minh vạch thời đại: quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hoá là những phát minh có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng tới sự hình thành chủ nghĩa Mác. Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng đã chứng minh một cách khoa học về mối quan hệ không tách rời nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau của các hình thức vận động của vật chất, bác bỏ quan niệm duy tâm về sự được sinh ra của vật chất, bác bỏ quan niệm siêu hình về vật chất. Thuyết tế bào bác bỏ quan điểm duy tâm, tôn giáo về nguồn gốc siêu tự nhiên của vật chất sống, bác bỏ quan niệm siêu hình về ranh giới tuyệt đối giữa các giống, loài động vật, thực vật, khẳng định quan niệm biện chứng về sự chuyển hoá của thế giới vật chất sống. Thuyết tiến hoá đã chứng minh một cách khoa học sự phát sinh phát triển một cách đa dạng của thế giới vật chất, khẳng định nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật bằng cơ sở khoa học. 3. Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin Các Mác sinh ngày 5 – 5 – 1818, ở Tơriơ, tỉnh Ranh, một vùng khá phát triển cả về kinh tế và chính trị của nước Đức. Do ảnh hưởng của gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã hình thành và phát triển ở Mác tinh thần nhân đạo chủ nghĩa cao cả, xu hướng yêu tự do, hoà mình vào cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động đã đưa Mác từ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Ph. Ăngghen sinh ngày 28 – 11- 1820, trong gia đình chủ xưởng sợi ở Bácmên thuộc tỉnh Ranh, nước Đức. Ngay từ nhỏ ông đã căm ghét sự chuyên quyền và sự độc đoán của bọn quan lại, cảm thông sâu sắc với những nỗi khổ cực của quần chúng nhân dân lao động. Ông đã trực tiếp tham gia vào phong trào đấu tranh của công nhân Anh cũng đã dẫn ông đến bước chuyển biến căn bản trong thế giới quan của ông từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Giai đoạn từ năm 1842 đến 1848, đánh dấu bằng tác phẩm Tuyên ngôn đảng cộng sản là giai đoạn hình thành và phát triển những luận điểm nền tảng của chủ nghĩa Mác với ba bộ phận cấu thành của nó. Giai đoạn từ năm 1848 đến năm 1895 là giai đoạn hai ông bổ sung và phát triển học thuyết của mình trong sự gắn bó mật thiết với thực tiễn cách mạng mà hai ông vừa là những đại biểu tư tưởng, vừa là lãnh tụ thiên tài của phong trào công nhân. Bằng hoạt động lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành phong trào tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ; chính trong quá trình đó, học thuyết của các ông không ngừng phát triển. V.I.Lênin sinh ngày 22 – 4 – 1870. Ông đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác khỏi sự xuyên tạc và phủ nhận của các trào lưu tư tưởng phản động như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại, làm phong phú, phát triển thêm lý luận của chủ nghĩa Mác trên cả ba lĩnh vực: triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học trong điều kiện lịch sử mới. Chủ nghĩa Mác ra đời đã ảnh hưởng lớn lao đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cuộc Cách mạng Tháng Ba năm 1871 ở Pháp là sự kiểm nghiệm vĩ đại đối với tư tưởng của chủ nghĩa Mác. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một kiểu nhà nước mới – nhà nước chuyên chính vô sản (Công xã Pa ri) được thành lập. Tháng Tám năm 1903, chính đảng vô sản đầu tiên của giai cấp vô sản được thành lập theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Đảng Bônsêvích Nga. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản thắng lợi ở nước Nga và mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử nhân loại. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và những nước xã hội chủ nghĩa khác đã biến những tư tưởng của chủ nghĩa Mác thành hiện thực, mặc dù từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào giai đoạn thoái trào nhưng tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trên phạm vi quốc tế; quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vẫn được khẳng định ở nhiều quốc gia và cổ vũ nhiều nước lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, để bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội do trí tuệ, mồ hôi, xương máu của nhiều thế hệ mới tạo dựng được; để có những bước phát triển vượt bậc trong sự nghiệp giải phóng con người thì việc bảo vệ, kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và đổi mới công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành vấn đề cấp bách trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận. Những thành tựu to lớn mà dân tộc Việt Nam đã đạt được trong chiến tranh giành và giữ độc lập dân tộc, trong hoà bình xây dựng và trong sự nghiệp đổi mới đều bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phải “Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.131. . II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN 1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử - Những nội dung lý luận triết học cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin a) Chủ nghĩa duy vật biện chứng Theo Ph.Ăngghen, từ xưa đến nay, ngay từ thời cổ đại, con người đã phải giải đáp về mối quan hệ giữa linh hồn của con người và thể xác của nó. Có hay không có thế giới bên kia? Nếu có thế giới bên kia thì nó đóng vai trò gì đối với cuộc sống của con người? Thế giới do đầu óc con người tạo ra có quan hệ thế nào với thế giới bên ngoài đầu óc con người?... Đó là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức, đây cũng là vấn đề lớn, vấn đề cơ bản của triết học. “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và tự nhiên, là vấn đề xét xem cái nào có trước, tinh thần hay tự nhiênTuỳ theo cách trả lời câu hỏi đó mà các nhà triết học chia thành hai phe lớn. Những người nào quả quyết rằng tinh thần có trước tự nhiên và do đó, xét đến cùng, bằng cách này hay cách khác thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới, những người ấy hợp thành phe duy tâm chủ nghĩa. Còn những người cho rằng tự nhiên là cái có trước thì thuộc về các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.” C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr.403. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: 1) Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào? 2) Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta cơ sở khoa học để phân biệt thế giới quan (hệ thống các quan niệm về thế giới) của các nhà triết học. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người là các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật, như chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại (thuyết Âm – Dương Ngũ hành: kim – mộc – thuỷ - hoả - thổ tương sinh tương khắc hình thành nên vạn vật, thuyết nguyên tử của Đêmôcrit), chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII (ví dụ như các nhà triết học: Xpinôda (1632-1677), Giôn Lôccơ (`632-1704) Hônbách (1729-1789), Điđơrô (1713-1784)), chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa duy vật duy kinh tế, Chủ nghĩa duy vật đại biểu cho các lực lượng tiến bộ, gắn bó với sự phát triển của khoa học tự nhiên và hoạt động thực tiễn của con người. Nó có nhiều hình thức khác nhau nhưng đều thống nhất ở chỗ coi vật chất là cái có trước và quyết định ý thức, đều xuất phát từ chính bản thân thế giới để giải thích thế giới, động viên cổ vũ con người khám phá chinh phục thế giới. Những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm; họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm như chủ nghĩa duy tâm chủ quan (quan niệm thế giới chỉ là phức hợp, tổng hợp cảm giác của con người; đại biểu là các nhà triết học: Gióocgiơ Beccli (1684-1753), Đavit Hium (1711-1766), chủ nghĩa duy tâm khách quan (quan niệm thế giới là ảnh, là bóng của “thế giới ý niệm”, hay là tồn tại khác của “tinh thần thế giới”; đại biểu là các nhà triết học như: Platôn (427-347 tr.CN), Hêghen (1770-1831). Chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện và tuyệt đối hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức rất phức tạp của con người, tuyệt đối hoá năng lực sáng tạo của ý thức con người coi nó sản sinh ra thế giới vật chất, và do sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay, sự thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay, sự tuyên truyền, ủng hộ của các giai cấp thống trị để bảo vệ lợi ích ích kỷ của mình, nó thường gắn liền với các lực lượng bảo thủ, phản tiến bộ và tôn giáo. Những người cho rằng cả vật chất và ý thức song song tồn tại không cái nào quyết định cái nào và đều là nguyên nhân, bản chất của thế giới, được gọi là những nhà nhị nguyên hay nhị nguyên luận triết học. Quan điểm này thực chất là biến tướng của chủ nghĩa duy tâm, vì cho rằng ý thức không phụ thuộc vào vật chất. Trả lời câu hỏi con người có khả năng nhận thức thế giới được hay không? Những người khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức thế giới được gọi là khả tri luận triết học, những người cho rằng con người không có khả năng nhận thức thế giới được gọi là bất khả tri luận triết học. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa duy vật. Kế thừa các giá trị đã đạt được trong lịch sử tư tưởng, khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Vật chất, theo V.I.Lênin định nghĩa: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.18, tr.151 . Vật chất với tư cách là phạm trù triết học mang tính trừu tượng, khái quát cao, không có dạng tồn tại cảm tính mà chỉ thông qua sự vật cảm tính nó bộc lộ sự tồn tại của mình. Nói cách khác, vật chất bộc lộ sự tồn tại của nó thông qua các hình thức cụ thể của nó như: đất, nước, lửa, không khí,hiểu vật chất thông qua phạm trù đối lập của nó là ý thức – những gì không phải là ý thức tồn tại khách quan là vật chất. Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Vật chất dưới hình thức cụ thể của nó là cái có thể gây ra cảm giác của con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người, ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, vật chất là cái được ý thức phản ánh. Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là não người. Bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người một cách năng động, sáng tạo, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là thế giới khách quan được di chuyển vào não người và cải biến trong đó. Theo C.Mác: “ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức” C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.37. . Không thể tách rời hoặc đồng nhất ý thức với vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan, là thực tại chủ quan, là cái thuộc phạm vi chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên (não người và thế giới khách quan) và nguồn gốc xã hội (do lao động và ngôn ngữ). Theo quan điểm duy vật biện chứng, vật chất quyết định ý thức, vì ý thức chỉ là sản phẩm của não bộ con n