Tóm tắt: Trong xu thế nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay, giáo trình
là tài liệu rất cần thiết được sử dụng trong hoạt động học tập và giảng dạy, do
đó cần nhìn nhận đúng nghĩa tới các chức năng của giáo trình có liên quan tới
người học và người dạy trong định hướng “Dạy học đặt sinh viên vào vị trí
trung tâm”. Trong bài viết này, tác giả trao đổi một số thông tin về chức năng
và vị trí của giáo trình trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học đại học.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 14
GIÁO TRÌNH TRONG XU THẾ ĐỔI MỚI
PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐẠI HỌC
TS. Trƣơng Minh Trí
Trưởng phòng KH&HTQT, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Trong xu thế nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay, giáo trình
là tài liệu rất cần thiết được sử dụng trong hoạt động học tập và giảng dạy, do
đó cần nhìn nhận đúng nghĩa tới các chức năng của giáo trình có liên quan tới
người học và người dạy trong định hướng “Dạy học đặt sinh viên vào vị trí
trung tâm”. Trong bài viết này, tác giả trao đổi một số thông tin về chức năng
và vị trí của giáo trình trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học đại học.
Từ khóa: Giáo trình, phương pháp.
1. Khái quát về chức năng của Giáo trình
1.1. Chức năng liên quan tới người học
Truyền đạt kiến thức; phát triển kỹ
năng; củng cố các hiểu biết; đánh giá
kiến thức; tra cứu, tham khảo; giáo dục
về mặt xã hội, nhân văn
a. Chức năng truyền đạt kiến thức
Đây là chức năng truyền thống và
quan trọng của giáo trình ở các lĩnh vực
cơ bản, cơ sở, chuyên ngành và nâng
cao. Giáo trình giúp sinh viên tiếp thu
được các kiến thức như: khái niệm, dữ
liệu đặc biệt, các quy tắc, các công thức,
các sự việc, các quy trình, các hệ thuật
ngữ, những quy ước,
b. Chức năng phát triển các kỹ năng và
phương pháp
Một cuốn giáo trình không chỉ cho
phép tích lũy một loạt hiểu biết, mà còn
giúp phát triển những kỹ năng vận dụng,
những thái độ ứng xử, giúp hình thành
những thói quen trong lao động và đời
sống. Thông qua đó sinh viên được tiếp
cận có chọn lọc, hoàn thiện và phát triển
các lĩnh vực quan tâm như: kỹ năng
nghiên cứu khoa học, kỹ năng tổng hợp
tài liệu, kỹ năng viết tổng kết, kỹ năng
thu thập thông tin,
c. Chức năng củng cố các hiểu biết
Sau khi đã học một kiến thức hoặc
một kỹ năng, cần phải luyện tập những
tình huống khác nhau để đảm bảo được
sự bền vững nhất định. Đó là vai trò của
các bài luyện tập, đồ án, vận dụng,
Chức năng này cũng có tính chất
truyền thống và một số giáo trình đặc
biệt chỉ nhằm thực hiện mục tiêu này.
d. Chức năng đánh giá kiến thức
Đây là chức năng không thể thiếu
đối với mọi quá trình học tập. Nó không
chỉ là sự đánh giá để chứng nhận, nghĩa
là nhằm xác định xem sinh viên đã làm
chủ được kiến thức chưa. Sự đánh giá
này được thực hiện trong khuôn khổ của
một giáo trình, nhằm uốn nắn sinh viên
sự hiểu biết, vận dụng và hình thành thói
quen về kỹ năng. Muốn vậy, sự đánh giá
này phải nhằm xác định được sự bổ sung
kiến thức thích hợp đối với các khó khăn
trong học tập của sinh viên để giúp các
em tiến bộ, hoặc chỉ đơn giản nhằm thúc
đẩy sự tiến bộ của một sinh viên bằng
cách chỉ ra chính xác nguồn gốc của
những khó khăn thông qua phân tích các
sai lầm của em sinh viên đó trong quá
trình tiếp cận. Ví dụ: sinh viên khi học
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 15
Thuyết lai hóa (học phần Hóa học đại
cương): Ngoài việc hiểu kiến thức, sinh
viên biết vận dụng để xác định hình
dạng của các hợp chất theo cấu trúc
không gian và theo điều kiện của môi
trường, sự bền vững của các hợp chất
theo chu kỳ hoặc theo nhóm, trên cơ sở
đó hướng đến việc xử lý (về mặt hóa học
một tạp chất), nhằm tạo ra vật liệu mới
có tính chất bền vững hơn về cấu trúc.
e. Chức năng tham khảo
Giáo trình luôn được xem là tài
liệu quan trọng giúp sinh viên tham khảo
để tìm một thông tin chính xác, như một
công thức hóa học, một cơ sở lý luận
thực tiễn, một sự kiện, một nguyên tắc
ứng dụng trong quá trình xử lý, sự giải
thích một hiện tượng trong khí hậu,
Ở những điều kiện mà việc tiếp cận
thông tin khoa học khó khăn, thì chức
năng này rất quan trọng: giáo trình đôi khi
được xem là một nguồn thông tin bằng
văn bản duy nhất. Ngày nay, khi khoa học
và công nghệ ngày càng phát triển, thì
chức năng tham khảo vẫn là chủ yếu,
nhưng lại có thể chiếm một cương vị
khác: khẳng định về tính chính thống của
kiến thức truyền tải, có vai trò đối với
khung tham khảo cho phép sinh viên hình
thành những hệ quy chiếu vững chắc đối
với các khung tham khảo khác.
g. Chức năng giáo dục xã hội – nhân văn
Chức năng này liên quan đến các
hành vi ứng xử, về các mối quan hệ với
cuộc sống xã hội nói chung. Một cuốn
giáo trình có thể không chỉ chuyên nhằm
truyền thụ kiến thức và kỹ năng, mà
cũng có thể nhằm phát triển khả năng
ứng dụng các ngành khoa học liên quan,
khả năng ứng xử, cho phép sinh viên tìm
được vai trò, vị trí của mình trong phạm
vi ngành/nghề trong xã hội, gia đình,
văn hóa, dân tộc, v.v
Một cuốn giáo trình luôn có một
chức năng chính và một hoặc nhiều chức
năng phụ.
Bảng 1. Phân loại các chức năng chính, phụ theo loại giáo trình
Chức năng
chính
Chức năng
phụ
Loại giáo trình
a b, c, g
Loại truyền thống (nghĩa là gồm chủ yếu các thông tin
và các bài luyện)
a g
Giáo dục (nếu có nhấn mạnh về phía truyền thụ kiến
thức)
a b, d Chương trình hóa
b a, e, g Tư liệu phục vụ học tập
c d Sách bài tập
e a Chuyên khảo,
g b, e Kỹ năng làm việc và ứng xử
(Các chữ a, b, c, là thứ tự các chức năng đã trình bày ở trên)
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 16
Ví dụ: sinh viên khi học Thuyết
lai hóa (học phần Hóa học đại cương):
sinh viên sẽ biết được ý nghĩa của sự
bền vững về mặt cấu trúc đối với các
nguyên tố hóa học, đơn chất và hợp
chất tự nhiên, từ đó giúp sinh viên hình
thành các ý tưởng về sự bảo tồn, xử lý
và phát triển vật liệu ở địa phương
thân thiện với môi trường. Hoặc khi
sinh viên học Dung dịch keo: sinh viên
biết được sự thủy phân của các thành
phần ion có trong môi trường tạo ra hệ
keo và pH môi trường (H+ hay OH-)
trong nguồn nước xây dựng hoặc trong
không khí ẩm, dẫn đến sự ăn mòn vật
liệu kim loại và góp phần gây hiện
tượng “nứt”, sẽ góp phần giảm tuổi
thọ công trình,trên cơ sở đó sẽ giúp
sinh viên định hướng giải pháp nhằm
hạn chế sự ảnh hưởng về sự ăn mòn.
Hoặc là khi sinh viên học đến Hệ
ngưng tụ: sinh viên biết được cấu trúc
mạng lưới brave, là cơ sở để tính toán
khả năng chịu lực của từng loại mạng
lưới, điều này rất có ý nghĩa trong quá
trình tính toán và sử dụng các loại đá
xây dựng trong hoạt động xây dựng,.
Như vậy giáo trình có tính chất đa
chức năng và điều này đảm bảo cho giáo
trình đóng vai trò chủ yếu trong việc
thực hiện mục tiêu chủ yếu của môn học.
1.2. Chức năng liên quan đến giảng viên
Các giáo trình đều có các chức
năng đào tạo: Mục tiêu là tổng hợp các
kiến thức của nhân loại, cho phép giảng
viên tham khảo, thực hiện vai trò nghề
nghiệp của mình trong hoạt động dạy –
học. Như vậy giáo trình có thể hoạch
định nhiều “con đường” mới, công cụ
mới, bài thực hành mới trong quá trình
vận dụng sự phát triển của khoa học và
đặc điểm của hoàn cảnh biên soạn, nếu
như những tác giả soạn thảo giáo trình
quan tâm đến. Có thể kể đến các chức
năng cơ bản của giáo trình có liên quan
tới giảng viên.
a. Chức năng thông tin và thông tin khoa học
Các giáo trình và đặc biệt là giáo
trình dành cho giảng viên, có thể đem
đến cho họ những tri thức rất cần thiết,
chẳng hạn bằng cách phân tích tài liệu
được đề cập trong tiết học bằng những
thông tin bổ trợ được tổng hợp từ các
nghiên cứu và ứng dụng,
b. Chức năng đào tạo gắn liền với môn học
Giáo trình có thể có vai trò đào tạo
liên tục bằng cách đem đến cho người
dạy một loạt tuyến hành động thích hợp:
khái niệm quy luật quy trình
vận dụng, phù hợp với lý luận dạy của
các bộ môn.
c. Chức năng giúp đỡ việc học và quản
lý lớp học
Giáo trình có thể cung cấp nhiều
bước tiến hành tiếp cận với hoạt động
nhận thức. các hoạt động nhận thức có
thể “hệ mở” hoặc “hệ kín” tùy thuộc vào
giới hạn của yêu cầu chương trình khung
môn học. Trong trường hợp này, giáo
trình hỗ trợ cho giảng viên các chỉ dẫn
và cách thức cần thiết để thực hiện một
loạt các hoạt động. Khi đó mỗi giảng
viên được xem như là mỗi “nhà kiến trúc
sư phạm” hoạch định cho sinh viên cách
thức tiếp cận với kiến thức khoa học,
đặc biệt là ở “hệ kín”. Ví dụ, giáo trình
hóa học hoặc vật lý sẽ đề nghị làm thực
nghiệm khi nêu ra một tiến trình phải
tuân theo, vật liệu cần tập hợp, các yếu
tố phải đặc biệt lưu ý, những khả năng
cần khai thác,
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 17
Các soạn giả cũng có thể đề xuất
các con đường mở dành cho giảng viên
và sinh viên thực sự tự do trong hoạt
động nghiên cứu.
2. Vị trí của giáo trình trong quá trình
dạy học theo phƣơng pháp: đặt ngƣời
học vào vị trí trung tâm
“Dạy học đặt sinh viên vào vị trí
trung tâm” là một tư tưởng dạy học tiến bộ.
Tư tưởng này quyết định các cách tiếp cận
dạy học. Mỗi cách tiếp cận dạy học lại
quyết định các phương pháp dạy học hay
chiến lược dạy học và sau cùng, mỗi
phương pháp dạy học hay chiến lược dạy
học quy định các biện pháp dạy học cụ thể.
Dưới tư tưởng chỉ đạo “Dạy học
đặt người học vào vị trí trung tâm” theo
định hướng của Đảng và của Ngành giáo
dục, mọi chiến lược và biện pháp cụ thể
của quá trình dạy học đều cần đạt được
mục tiêu là dạy sinh viên biết cách tự
học. Vì vậy, giáo trình cần phải là một
trong các phương tiện quan trọng nhằm
đạt được mục đích tự học này.
Bảng 2. Thể hiện mối quan hệ giữa các chiến lược học tập và các biện pháp cụ
thể dành cho sinh viên.
Chiến lƣợc học tập Biện pháp
Tự giám sát
(Tự kiểm tra mức độ lĩnh hội của bản
thân)
- Tự đặt ra các câu hỏi
- Ghi nhật ký
- Ghi các nhận xét
Chú ý có định hướng
(Quyết định trước về những nhiệm
vụ cần tập trung, tránh các phân
tán)
- Xây dựng một kế hoạch cần hoàn thành
- Nghiên cứu thư viện, tài liệu mở
- Đọc lướt các nội dung để lấy thông tin
chính
- Lập kế hoạch cho các nội dung quan trọng
Tự điều hành
(Quyết định trước về các thông tin
cần tập trung)
- Tạo ra một danh mục các mục tiêu và các
điểm cần ưu tiên
- Làm việc theo nhóm để phát thảo quá trình
hoàn thiện
Lập kế hoạch cho việc tự nhận thức
(Xây dựng các mục tiêu cá nhân và
chọn các phương pháp thích hợp)
- Liệt kê các mục tiêu cần hướng đến
- Xác định các tiến độ cá nhân
- Sử dụng các ý kiến của giảng viên
Quy nạp và suy diễn
(Dự đoán/Vận dụng)
- Giải quyết vấn đề
- Hoàn thành các thí nghiệm/bài tập lớn,
- Lập ra các giải pháp thực thi
- Lựa chọn
Sử dụng nguồn tài liệu - Đọc các tài liệu tham khảo (giáo trình do
giảng viên giới thiệu, tài liệu thư viện)
Hợp tác/phối hợp
(Làm việc với các bạn cùng lớp để
- Thảo luận nhóm
- Thực hành theo nhóm
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 18
Chiến lƣợc học tập Biện pháp
giải quyết vấn đề) - Xây dựng kế hoạch hành động của nhóm
Hướng dẫn
(Cung cấp các hướng dẫn và hỗ trợ
của cá nhân)
- Làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm
- Bình luận và góp ý của nhóm
- Cá nhân sinh viên làm việc với giảng viên
- Tra cứu hướng dẫn của giáo trình
Từ bảng trên có thể thấy rõ: phần
lớn các biện pháp học tập của sinh viên
nhằm đạt được chiến lược học tập tích
cực đều cần sự hỗ trợ của giáo trình.
Như vậy, điều cần khẳng định lại
trong xu thế dạy học nhằm tích cực hóa
hoạt động nhận thức của sinh viên, các
phương pháp dạy học tích cực về thực
chất là tăng cường khả năng tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên và giáo trình
đóng vai trò hỗ trợ quan trọng trong
phần lớn các biện pháp tự học này.
3. Giáo trình trong xu thế đổi mới
phƣơng pháp dạy học
Theo chương trình đào tạo, giáo
trình là sự hỗ trợ chính cho bài học.
Giảng viên chuẩn bị bài lên lớp, bao
gồm một số hoạt động trên lớp được
thiết kế nhằm đạt được các mục tiêu của
bài học. Trong quá trình dạy học đó,
sinh viên được yêu cầu đọc nội dung
trong giáo trình để vận dụng, phần đọc
giáo trình được xem như bài tập ở nhà
trước hoặc sau bài học, đôi khi việc đọc
những nội dung chính của giáo trình cần
được thực hiện ngay trên giảng đường,
trong giờ học. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
tình trạng sử dụng giáo trình hết sức
khác biệt: giáo trình chính là bài học
chứ không phải hỗ trợ cho bài học.
Giảng viên giảng những bài đúng như
trong giáo trình, và sinh viên không cần
nghiên cứu trước vì giảng viên chép lên
bảng hoặc trình bày bằng miệng trước
lớp học.
Với xu hướng dạy học đưa người
học vào vị trí trung tâm, các phương pháp
dạy học tích cực được xem như giải pháp
quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu
dạy học. Các phương pháp dạy học đó
cần được thể hiện ngay trong giáo trình
và về thực chất, các phương pháp này có
mục đích giống nhau là tăng cường khả
năng (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, vận
dụng) để giải quyết các vấn đề cần đạt tới
của người học, đây chính là vấn đề tự học,
tự nghiên cứu của sinh viên.
Bởi vậy, mấu chốt cần cải tiến
trong việc biên soạn giáo trình chính là
cần phát triển giáo trình là một tài liệu
hỗ trợ tích cực cho các phương pháp
dạy học nhằm tích cực hóa vai trò của
người học.
Giáo trình cần phải có sự kết hợp
giữa nội dung chính, phần đọc hiểu và
vận dụng. Thông thường, các giáo trình
xuất bản hiện nay thường bắt đầu bằng
phần đọc hiểu cung cấp thông tin, sau
đó một số bài tập ở cuối chương. Điều
này bộc lộ hạn chế rất lớn, vì người học
quan niệm phần đọc hiểu là cơ bản, bài
tập chỉ là sự lựa chọn. Do đó, tư duy
cần được thay đổi lại: Bài học trong
giáo trình bao gồm một số hoạt động
song song với phần đọc hiểu. Với cách
này, giáo trình sẽ buộc giảng viên thực
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 19
hiện các phương pháp dạy học tích cực
và không chỉ là một việc đơn giản và
kém hiệu quả là đọc và ghi chép bài của
giáo trình lên bảng.
4. Kết luận
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đòi hỏi “sản phẩm
đào tạo” phải có nhiều năng lực mới:
năng lực tư duy độc lập, năng lực tự học
và tự cập nhật thường xuyên kiến thức
mới, năng lực thích ứng với những thay
đổi, nhằm rút bớt khoảng cách lạc hậu
so với các nước phát triển trong khu vực
và trên thế giới.
Trường Đại học Xây dựng Miền
Trung trong những năm qua đã thực
hiện chủ trương của Đảng ủy, Ban
Giám hiệu về việc đổi mới phương
pháp giảng dạy: “giúp sinh viên hướng
đến năng lực tự học và tự đánh giá là
việc làm thường xuyên, liên tục” nhằm
thực hiện có hiệu quả chủ trương của
Đảng được thông qua tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X: “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển
kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020”.