Nhu cầu tham khảo ý kiến người khác để giải quyết những vấn nạn cá nhân là một nhu cầu
đã có từ thượng cổ, có lẽ từ khi con người có được ngôn ngữ. Bạn bè tâm sự cùng nhau; anh
chị em chia xẻ vui buồn; vợ chồng, ông bà, cha mẹ cùng nhau bàn bạc để tìm cách giải quyết
một vấn đề của gia đình; tham khảo ý kiến chỉ bảo của các nhà tu là những hình thức tư
vấn truyền thống. Những hình thức tư vấn này có giá trị lớn trong việc cung cấp sự hỗ trợ
tinh thần và vì vậy đã có phần đóng góp quan trọng vào cuộc sống yên vui của con người
cũng như an sinh của xã hội.
Bên cạnh các hình thức tư vấn truyền thống kể trên, khi xã hội phát triển lên theo các mô
hình sản xuất kinh tế công nghiệp ngày càng phức tạp, đòi hỏi trình độ phối hợp của nhiều
ngành khác nhau, tất cả đều ngày càng chuyên môn hóa, nhu cầu của con người cũng trở nên
phong phú và phức tạp hơn. Người ta bắt đầu gặp những vấn nạn vượt ngoài tầm giúp đỡ
của các tài nguyên truyền thống. Những uẩn khúc tâm lý, những khúc mắc tình cảm không
thể dễ dàng cho cha mẹ, anh chị em hay bè bạn hiểu được, hoặc không thể giải quyết bằng
những lý thuyết đạo đức cao siêu của các nhà tu. Trong điều kiện này và song song với sự
phát triển nhanh chóng của các khoa tâm lý học, xã hội học, y học, gia đình học và công tác
xã hội, từ đầu thế kỷ 20 đã bắt đầu manh nha xuất hiện vai trò mới mẻ của phương pháp trị
liệu bằng ngôn ngữ/talk therapy.
Từ một thế kỷ qua, khởi đầu bằng phương pháp phân tâm làm mê hoặc cả thế giới, khoa tâm
lý trị liệu đã tiến rất xa, đã phát triển thành một ngành nghề vững chắc với những lý thuyết,
những trường phái vô cùng đa dạng. Mặc dù xây dựng ngành tâm lý trị liệu sau Âu Mỹ hàng
trăm năm, Việt Nam ngày nay có rất nhiều thuận lợi: chúng ta không phải thụ động chờ đợi
sự ra đời của những thiên tài như Freud, Jung, Adler, Ellis, Rogers, Satir, Erickson, hay
Minuchin Tất cả những phát kiến kỳ diệu của những nhân vật này và hàng ngàn lý thuyết
gia kim cổ khác đều ở sẵn trong nhà chúng ta, luôn luôn chờ đợi một vài cái click ngắn gọn
trước máy điện toán là xuất hiện để sẵn sàng chia xẻ kiến thức với chúng ta. Một thí dụ điển
hình là thư viện điện tử lớn nhất thế giới Questia.com, chỉ cần đóng một lệ phí nhỏ hàng
tháng, người ta có thể có trong tay bất cứ lúc nào hơn 67 ngàn cuốn sách và một triệu rưỡi
bài viết về hầu hết các đề tài chuyên môn nào chúng ta có thể nghĩ ra.
76 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Tư vấn tâm lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Giáo trình
Tư vấn tâm lý
2
Lời Nói Đầu
Nhu cầu tham khảo ý kiến người khác để giải quyết những vấn nạn cá nhân là một nhu cầu
đã có từ thượng cổ, có lẽ từ khi con người có được ngôn ngữ. Bạn bè tâm sự cùng nhau; anh
chị em chia xẻ vui buồn; vợ chồng, ông bà, cha mẹ cùng nhau bàn bạc để tìm cách giải quyết
một vấn đề của gia đình; tham khảo ý kiến chỉ bảo của các nhà tu là những hình thức tư
vấn truyền thống. Những hình thức tư vấn này có giá trị lớn trong việc cung cấp sự hỗ trợ
tinh thần và vì vậy đã có phần đóng góp quan trọng vào cuộc sống yên vui của con người
cũng như an sinh của xã hội.
Bên cạnh các hình thức tư vấn truyền thống kể trên, khi xã hội phát triển lên theo các mô
hình sản xuất kinh tế công nghiệp ngày càng phức tạp, đòi hỏi trình độ phối hợp của nhiều
ngành khác nhau, tất cả đều ngày càng chuyên môn hóa, nhu cầu của con người cũng trở nên
phong phú và phức tạp hơn. Người ta bắt đầu gặp những vấn nạn vượt ngoài tầm giúp đỡ
của các tài nguyên truyền thống. Những uẩn khúc tâm lý, những khúc mắc tình cảm không
thể dễ dàng cho cha mẹ, anh chị em hay bè bạn hiểu được, hoặc không thể giải quyết bằng
những lý thuyết đạo đức cao siêu của các nhà tu. Trong điều kiện này và song song với sự
phát triển nhanh chóng của các khoa tâm lý học, xã hội học, y học, gia đình học và công tác
xã hội, từ đầu thế kỷ 20 đã bắt đầu manh nha xuất hiện vai trò mới mẻ của phương pháp trị
liệu bằng ngôn ngữ/talk therapy.
Từ một thế kỷ qua, khởi đầu bằng phương pháp phân tâm làm mê hoặc cả thế giới, khoa tâm
lý trị liệu đã tiến rất xa, đã phát triển thành một ngành nghề vững chắc với những lý thuyết,
những trường phái vô cùng đa dạng. Mặc dù xây dựng ngành tâm lý trị liệu sau Âu Mỹ hàng
trăm năm, Việt Nam ngày nay có rất nhiều thuận lợi: chúng ta không phải thụ động chờ đợi
sự ra đời của những thiên tài như Freud, Jung, Adler, Ellis, Rogers, Satir, Erickson, hay
Minuchin Tất cả những phát kiến kỳ diệu của những nhân vật này và hàng ngàn lý thuyết
gia kim cổ khác đều ở sẵn trong nhà chúng ta, luôn luôn chờ đợi một vài cái click ngắn gọn
trước máy điện toán là xuất hiện để sẵn sàng chia xẻ kiến thức với chúng ta. Một thí dụ điển
hình là thư viện điện tử lớn nhất thế giới Questia.com, chỉ cần đóng một lệ phí nhỏ hàng
tháng, người ta có thể có trong tay bất cứ lúc nào hơn 67 ngàn cuốn sách và một triệu rưỡi
bài viết về hầu hết các đề tài chuyên môn nào chúng ta có thể nghĩ ra.
Trong các trường phái lớn của khoa tư vấn tâm lý, còn gọi là là tâm lý trị liệu, trường phái có
ảnh hưởng nhất hiện nay là phái nhân bản/humanistic mà người đứng đầu là Carl Rogers. Có
thể nói phái nhân bản là một cuộc cách mạng trong tư vấn tâm lý vì nó gần như ngược hoàn
toàn với những lý thuyết và cách tiếp cận của các trường phái xuất hiện trước đó. Thí dụ:
quan hệ giữa khách hàng và người làm công tác tư vấn là quan hệ hợp tác bình đẳng; khách
hàng chứ không phải người làm công tác tư vấn, là chuyên gia về cuộc đời của họ; giải pháp
thật sự cho vấn nạn là giải pháp cho khách hàng nghĩ ra hoặc tham gia vào việc tìm ra chứ
không phải do người làm công tác tư vấn áp đặt
Ngoài ra, do tính cách phức tạp của vấn nạn xuất phát từ cuộc sống ngày càng đa dạng của
con người, mỗi trường phái, mỗi lý thuyết đều có ưu và khuyết điểm riêng. Chính vì vậy
phương pháp tổng hợp các trường phái/the eclectic approach là phương pháp phổ biến nhất.
Điều này hợp lý vì nó giúp người làm công tác tư vấn tận dụng được trí khôn của nhân loại,
3
không phân biệt nguồn gốc, miễn giúp được khách hàng vượt qua vấn nạn. Tài liệu này
được biên soạn theo tinh thần phương pháp tổng hợp với trụ cột là cách tiếp cận lấy con
người làm trung tâm của trường phái nhân bản.
Tác giả hy vọng tài liệu này sẽ phần nào hữu ích cho độc giả và sẽ góp phần tạo hứng thú
cho các bạn trẻ để tham gia nghiên cứu, học tập làm cho khoa tư vấn tâm lý Việt Nam ngày
càng mau chóng lớn mạnh. Sau cùng, do khả năng hạn hẹp, soạn giả xin phép được để
nguyên một số chữ tiếng Anh bên cạnh tiếng Việt để rõ nghĩa và để tiện cho việc góp ý của
quý vị độc giả để việc chuyển dịch từ ngữ trong tương lai thêm chính xác.
Trần Đình Tuấn
San Jose, California, tháng Bảy 2009
Phần Một : NHỮNG TRƯỜNG PHÁI CHÍNH
Chương 1 : PHÁI TƯƠNG TÁC TÂM LÝ/PSYCHODYNAMIC
SIGMUND FREUD (1856-1939) VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN
TÂM/PSYCHOANALYSIS
Được xem là một trong bốn nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đến lịch sử nhân loại trong thế
kỷ 20 (cùng với Charles Darwin, Albert Einstein, và Karl Max), Freud là người Áo gốc Do
Thái, sinh ra và sống gần hết đời ở Vienne. Sau khi Đức quốc xã sát nhập Áo vào lãnh thổ
Đức năm 1937, Freud trốn sang Anh và mất tại London năm 1939. Tư tưởng vô cùng phong
phú, táo bạo, và phức tạp của Freud có thể được tóm tắt qua những điểm chính sau đây:
1. Các giai đoạn hình thành tâm lý con người:
Theo Freud, cái tôi của con người là một thực thể tâm lý phức tạp hình thành do tác động
của ba đòi hỏi khác nhau của thú tính bẩm sinh/id, lương tâm/superego, và hoàn cảnh sống
thực tế/reality tức là môi trường sống thực của cái Tôi/ego. Con người là một sinh vật y như
mọi sinh vật khác, và vì vậy từ khi chào đời đã có thú tính bẩm sinh muốn được thỏa mãn
những nhu cầu vật chất và sinh lý và muốn tránh khổ đau. Trong quá trình trưởng thành, ảnh
hưởng của gia đình, văn hóa, tôn giáo, xã hội tạo ra lương tâm, tức là cái phần lý tưởng
mà người ta muốn hướng tới. Hoàn cảnh sống thực tế là nơi diễn ra sự tranh chấp giữa thú
tính bẩm sinh và lương tâm. Kết quả của cuộc tranh chấp này là cái Tôi/ego, tức là mỗi cá
nhân với cách ứng xử an toàn nhất, phù hợp nhất, thực tế nhất mà con người lựa chọn cho
mình trong mọi hoàn cảnh.
Có nhiều động lực của cuộc sống/libido thúc đẩy thú tính bẩm sinh: ăn, mặc, ngủ, nghỉ ngơi,
an toàn, bạo lực nhưng chủ yếu nhất, mạnh mẽ nhất là động lực về tình dục. Freud cho
rằng từ khi mới chào đời con người đã có nhu cầu và đã có hành vi tình dục: sờ mó, bú mớm,
thích ôm ấp và được ôm ấp. Đây là một trong những ý kiến táo bạo nhất của Freud vì trước
4
đó người ta tin con người chỉ bắt đầu phát triển nhu cầu tình dục ở tuổi dậy thì. Động cơ tình
dục bẩm sinh thúc đẩy sự trưởng thành của con người qua năm giai đoạn: miệng/oral stage,
hậu môn/anal stage, dương vật/phallic stage, trước dậy thì/latency period, và sinh dục/genital
stage. Ở mỗi giai đoạn phát triển này môi trường sống, trong đó có ảnh hưởng của bố mẹ, là
quan trọng nhất, có thể làm cho nhu cầu tình dục của đứa trẻ được thỏa mãn một cách khác
nhau. Nếu được thỏa mãn vừa phải, đứa trẻ sẽ phát triển bình thường lên giai đoạn kế tiếp.
Nếu bị cấm cản không cho thỏa mãn hoặc bị buông thả cho thỏa mãn quá trớn nhu cầu tình
dục sơ sinh của nó, đứa trẻ sẽ phải chịu đựng những ám ảnh/fixation vào giai đoạn phát triển
liên hệ và không thể tiến lên giai đoạn cao hơn. Kết quả là nó sẽ lớn lên với những triệu
chứng bất bình thường về tâm lý.
Qua năm giai đoạn của quá trình trưởng thành này, đối tượng tình dục của đứa trẻ sơ sinh
dần dần thay đổi từ bản thân (bú ngón tay, tự sờ mó bộ phận sinh dục) và Mẹ (bú mớm, sờ
mó, ôm ấp) sang người khác phái:
Giai đoạn miệng/Oral stage, (từ 0 đến 1 tuổi):
Ở giai đoạn này đứa bé sơ sinh dùng miệng không phải chỉ để ăn (bú sữa) mà còn để sờ mó,
thám hiểm thế giới xa lạ chung quanh, và để có cảm giác sung sướng (bú ngón tay, ngậm vú
mẹ, ngậm núm vú). Freud chia giai đoạn này làm hai phân đoạn: phân đoạn thụ
động/receptive và phân đoạn chủ động/aggressive. Phân đoạn thụ động diễn ra trong vài tháng
đầu đời, đứa bé hoàn toàn phụ thuộc mẹ và chỉ biết bú, nuốt Phân đoạn chủ động diễn ra
khi lợi trở nên cứng và răng bắt đầu nhú ra, đứa bé bắt đầu biết diễn tả cảm xúc của nó bằng
động tác nhay, cắn (ngón tay, vú mẹ), tức là ngay từ giai đoạn sơ sinh này con người đã có
kinh nghiệm và diễn tả được kinh nghiệm vừa thương vừa ghét/ambivalence cùng một đối
tượng (mẹ, vừa bú vừa nhay vú mẹ, làm cho mẹ đau).
Giai đoạn hậu môn/Anal stage, (từ 1 đến 3 tuổi):
Khu vực nhạy cảm và tạo cảm giác sướng khoái nhiều nhất trong giai đoạn này là vùng hậu
môn, gồm cả hậu môn lẫn bộ phận tiểu tiện. Khoái cảm này cũng đã được xếp vào hàng “tứ
khoái” ở phương đông bất kể giai đoạn tuổi tác nào (ăn, ngủ, tình dục, đại tiểu tiện). Freud
cũng chia giai đoạn này làm hai phân đoạn: phân đoạn buông/expulsion và phân đoạn
giữ/retention. Ở phân đoạn buông đứa bé lần đầu tiên trải qua mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu
tiểu tự nhiên của nó và nhu cầu huấn luyện tiêu tiểu đúng chỗ, đúng lúc, của cha mẹ nó.
Phân đoạn này cũng là thời gian cực kỳ quan trọng để đứa bé học cách làm thế nào để được
khen, được thương; tình thương của cha mẹ không còn vô điều kiện như trước nữa mà tùy
theo ứng xử của đứa bé. Cách dạy con của cha mẹ trong phân đoạn này cũng góp phần
chính trong việc tạo nên một phần hết sức quan trọng trong cá tính của đứa bé, đó là cách nó
suy nghĩ và ứng xử đối với những người có quyền lực trong cuộc đời của nó. Nếu nó có cái
nhìn tích cực đối với quyền lực: quyền lực đứng về phía nó, hỗ trợ nó, khả năng hòa nhập
trên đời của nó sẽ khác hẳn so với cái nhìn bi quan, tiêu cực: quyền lực áp bức nó, thù
5
nghịch với nó. Ở phân đoạn giữ, đứa bé học được cách nín tiêu, tiểu, và chủ động được lúc
nào, ở đâu sẽ có cảm giác sướng khoái do tiêu tiểu mang lại.
Giai đoạn dương vật/Phallic stage, (từ 3 đến 5 hoặc 6 tuổi):
Freud đã chọn từ “phallic”, bắt nguồn từ chữ Hy lạp “phallus” nghĩa là dương vật, để đặt tên
cho giai đoạn này vì Freud cho của quý của đứa trẻ trai và hạt ngọc/clitoris của đứa trẻ gái
giống nhau, điều khác biệt là chỉ khi đến tuổi dậy thì đứa trẻ gái mới hình thành khoái cảm
từ bộ phận sinh dục. Khi đứa trẻ gái so sánh cái “dương vật” khiêm tốn của nó với con trai,
nó cảm thấy thua kém và trở nên ganh tị/penis envy.
Mặc cảm Oedipus: trong bi kịch của Sophocles, Oedipus, vua xứ Thebes, đã vô tình giết cha
và lấy mẹ mình làm vợ. Sau khi phát giác ra sự thật, mẹ Oedipus đã tự tử và Oedipus đã tự
móc mắt mình.
Theo Freud, tình thương đối với mẹ của đứa trẻ trai trở nên mãnh liệt vào đầu giai đoạn
dương vật. Nó muốn độc chiếm mẹ và vì vậy ngày càng trở nên ganh tị và mâu thuẫn với
bố, muốn cho bố “biến mất”. Vì bố to lớn hơn nó, khỏe hơn nó, đứa bé trở nên sợ bố và cái
nó sợ nhất là bị bố cắt mất của quý/castration anxiety là cái nó hay tự mầy mò để có cảm giác
sung sướng. Để thoát khỏi mối lo sợ này, đứa trẻ trai dồn nén tình yêu mẹ của nó vào tiềm
thức và tìm cách đứng về phía bố, nó bắt chước cách bố cư xử, suy nghĩ, hành động. Nhờ
vậy nó có được cảm giác an toàn không còn sợ bị thiến và vẫn có thể thầm lén yêu mẹ trong
trí tưởng tượng.
Mặc cảm Electra: Electra là chữ do Carl Jung chọn và dùng lần đầu tiên vào năm 1913 để
mô tả mặc cảm Oedipus ở phái nữ của Freud. Cũng trong bi kịch của Sophocles, Electra đã
giúp anh trai của mình giết mẹ và tình nhân để trả thù cho bố (đã bị tình nhân của mẹ giết).
Theo Freud, đứa trẻ gái, cũng như trẻ trai, lúc đầu gắn bó với mẹ, nhưng đến giai đoạn
dương vật, khi phát giác nó không có cơ quan sinh dục giống như con trai, nó trở nên ghen tỵ
và để thoát khỏi cảm xúc ghen tỵ khó chịu đó, nó muốn đứng về phía bố. Nó bắt đầu thù
ghét mẹ (đổ lỗi tại mẹ làm cho nó không có dương vật) và khi nhận ra nó không thể nào có
được dương vật như con trai, nó thay thế ao ước đó bằng ý muốn được bố làm cho có em bé
như mẹ. Ý muốn này làm cho đứa trẻ gái trở thành một “người đàn bà tí hon”. Những tác
động kể trên diễn ra trong khi đứa bé vẫn không ngừng cần được mẹ yêu thương chăm sóc,
và nó vừa muốn mẹ “biến mất đi” vừa sợ mất mẹ.
Giai đoạn trước dậy thì/Latency period, (từ 5, 6 tuổi đến dậy thì):
Trái với các giai đoạn trước, ở giai đoạn này động lực sống/libido, chủ yếu là bản năng tình
dục của đứa bé chỉ thay đổi về lượng chứ không thay đổi về chất. Đứa bé dồn nén được
những quan tâm về tình dục của những năm trước và tập trung năng lực vào việc phát triển
kiến thức cũng như năng khiếu mới. Ở giai đoạn này đứa bé thích chơi với bạn cùng giới.
6
Có thể nói những năm trước dậy thì là thời gian sự thăng bằng giữa thú tính bẩm sinh, lương
tâm, và cái Tôi đạt mức cao nhất trong đời người. Đây là thời gian biển lặng trước cơn bão
táp của tuổi dậy thì.
Giai đoạn sinh dục/Genital stage:
Thăng bằng giữa ba thành phần của bản ngã chấm dứt, thú tính bẩm sinh/ id vượt lên trên,
tạo ra những đòi hỏi mãnh liệt về tình dục với người khác phái. Nếu ở những giai đoạn
trưởng thành trước, đứa bé được thỏa mãn vừa phải, nó sẽ dồn được tất cả năng lực vào việc
phát triển mối quan hệ bình thường, hạnh phúc với người khác phái. Trái lại nếu nó không
được thỏa mãn vừa đủ hoặc được thỏa mãn quá độ, nó sẽ có triệu chứng của tình trạng ám
ảnh/fixation bởi giai đoạn cũ, giống như đứa trẻ học kém phải ở lại lớp, hoặc là ở lớp cũ nó
được các thày cô chiều chuộng quá mức khiến cho nó cứ muốn ở lại lớp đó hoài, không
muốn lên lớp trên. Vì thời gian cứ trôi qua, đứa bé bị bắt buộc phải lên lớp, nó sẽ phải tiêu
phí nhiều năng lực vào phản ứng dồn nén hoặc tự vệ liên quan đến những mâu thuẫn chưa
giải quyết được ở lớp cũ. Kết quả là nó sẽ khổ đau, sẽ không thể xây dựng được mối quan
hệ tốt đẹp, lành mạnh, hạnh phúc bình thường với người khác phái.
2. Thức/conscious, và vô thức/unconscious:
Thức là trạng thái tỉnh táo khi con người nhận biết được và có được phản ứng đối với những
kích thích của môi trường. Bên cạnh thức, Freud còn chỉ ra vai trò quan trọng của vô thức.
Mặc dù trước Freud đã có nhiều người nhắc đến từ “vô thức”, Freud là người phân tích tỉ mỉ
và chính xác nhất phần vô thức của tâm lý con người. Theo Freud trong vô thức có hai phần:
phần tiền thức/preconscious và phần vô thức. Tiền thức là những cảm xúc, những kinh
nghiệm, những ý nghĩ, những ghi nhận mà con người có thể dễ dàng nhớ lại khi cần; vô
thức là chỗ chứa những cảm xúc, những kinh nghiệm, những khao khát mạnh mẽ bị dồn nén
ra khỏi thức. Mặc dù con người không nhận biết những cảm xúc này và không thể nhớ lại
được chúng theo ý muốn nhưng chúng vẫn hiện diện trong vô thức và ảnh hưởng mạnh mẽ
đến cảm xúc cũng như ứng xử của con người qua cơ chế tự vệ/defense mechanism.
Trong cấu trúc tâm lý con người của Freud, phần Tôi/ego và phần Thiện/superego hoạt động
trong cả ba tầng của thức. Phần Ác/Id trái lại chỉ hoạt động trong tầng vô thức. 3. Ý
nghĩa của các giấc mộng:
Theo Freud mộng là “sự thực hiện thầm lén những ước vọng bị dồn nén” và là “con đường
lớn dẫn vào vô thức”. Phần Ác, tức thú tính bẩm sinh của con người luôn có những khát
vọng không thể thực hiện một cách an toàn trong đời sống thực, vì vậy chúng bị phần Thiện
và cái Tôi dồn vào vô thức. Mặc dù bị dồn nén, những khát vọng đó không hoàn toàn biến
mất và chúng hiện ra dưới hình thức các giấc mộng khi con người ngủ vì khi người ta ngủ,
phần Thiện và cái Tôi không hoạt động hữu hiệu như khi thức.
7
Freud chia nội dung mộng làm hai phần, phần nổi/manifest content và phần tiềm ẩn/latent
content. Phần nổi là phần chúng ta nhớ được khi thức dậy, trong phần này có tản mạn những
mảnh vụn của những gì xảy ra khi thức và những khát vọng bị dồn nén, tất cả được thể hiện
dưới hình thức ảo giác/hallucination (2) thường là ảo giác nhìn/visual hallucination. Phần tiềm
ẩn là những nội dung trôi nổi ra khỏi vô thức, những nội dung này có thể liền lạc, có ý nghĩa
hay rời rạc, quái dị, không rõ nghĩa. Trong tâm lý trị liệu của Freud, phương pháp nói
hết/free association giúp nhà trị liệu thu góp những thành phần rời rạc của các giấc mộng và từ
những thành phần rời rạc này hiểu được phần tiềm ẩn của mộng. Đây chính là mục đích của
giải mộng: nối kết phần nổi với phần tiềm ẩn và tìm ra ý nghĩa của giấc mộng (3).
4. Cơ chế tự vệ/defense mechanism:
Đây là một trong những khám phá quan trọng của Freud. Cơ chế tự vệ là những phản ứng
do vô thức điều động để giúp con người chống lại trạng thái bồn chồn lo lắng khi phải đối
phó với những mối đe doạ không có lối thoát rõ rệt. Dưới đây là một số cơ chế tự vệ thông
thường:
Biện luận/Intellectualization: dùng lý luận hay từ ngữ để ngăn không cho một mối đe dọa gây
ra cảm xúc tiêu cực cho bản thân. Thí dụ trong một gia đình sư tử Hà Đông, bà vợ nắm hết
quyền lực, quyết định mọi chuyện lớn nhỏ, lại hay nổi nóng quát nạt chồng con, ông chồng
chỉ được duy nhất một quyền tự do là quyền tuyệt đối lúc nào cũng đồng ý với vợ. Ông nói
với tất cả mọi người “Bà nhà tôi hồi nào tới giờ vẫn phải tập tính kiên nhẫn, đôi khi nói năng
không được dịu dàng nhưng bà ấy rất là quán xuyến, tôi chả phải lo gì hết cả”.
Đền bù/Compensation: khiếm khuyết ở một lĩnh vực được bù đắp bằng cố gắng và thành công
ở một lĩnh vực khác. Thí dụ người có một khuyết tật cố gắng học và làm việc thật giỏi để
tránh được cảm giác khó chịu vì bị mọi người coi thường.
Đổ tội/Blaming: đổ những khiếm khuyết, sai lầm, lỗi của mình cho người khác. Thí dụ:
“Cây quất trồng ở Hoài Nam là quất ngọt, đem sang trồng ở Hoài Bắc thì hóa quất chua. Tôi
bê bối, tôi dối trá, tôi ích kỷ như thế này là do ai? Là do chính cô đấy cô có biết không? Hồi
xưa chưa lấy cô tôi ở với bố mẹ tôi có như thế này đâu?”
Mộng tưởng/Fantasy: tưởng tượng được trải qua một mơ ước thầm kín nào đó không thể có
trong thực tế. Một thí dụ sáng thứ bảy đang phải ngồi ở nhà ăn phở với “cơm” nhưng lại
tưởng tượng đang được ở tiệm ăn cơm với “phở”!
Chối bỏ/Denial: từ chối chấp nhận một thực trạng vì nó tai hại cho sự an toàn của cái Tôi. Thí
dụ: ai cũng biết cậu quý tử gửi sang Pháp du học chỉ phung phí tiền ăn chơi trác táng, cha mẹ
cậu vẫn chối bỏ mọi thông tin chính xác và thành thật khoe với mọi người là cậu đang học
quản trị kinh doanh ở một đại học nổi tiếng của Paris.
8
Giận cá chém thớt/Displacement: chuyển cảm xúc, năng lực, từ đối tượng này sang đối tượng
khác để được bình an. Thí dụ: đi làm có chuyện bực mình với xếp về nhà kiếm chuyện mắng
vợ chửi con vì mắng chửi vợ con an toàn hơn mắng chửi xếp. Thí dụ khác: người yêu đi lấy
chồng, chàng bèn đi tu và trở thành một nhà tu chân chính, đạo hạnh.
Chuộc tội/Undoing: đền bù một hành vi hoặc ham muốn xấu bằng một hành động tốt. Thí dụ
một số ông chồng sau khi đi ăn vụng thì về nhà dịu dàng tử tế với vợ và phụ vợ chăm sóc
con cái đàng hoàng.
Giả bệnh/Somatization: biến đổi những khó chịu hay mối đe doạ thành bệnh tật. Thí dụ: mỗi
lần bà mẹ chồng ở quê ra thăm thì cô con dâu đều nhức đầu, đau bụng, khó ở, ăn không
ngon, ngủ không yên, không bác sĩ hay thầy lang nào chữa được, nhưng lần nào bà mẹ
chồng trở về quê thì bao nhiêu bệnh tật cũng đều tiêu tan.
Hoán chuyển/Sublimation: chuyển một ham muốn tự nhiên mạnh mẽ không được xã hội tán
đồng thành hành vi phù hợp với giá trị do xã hội đặt ra. Thí dụ: một người hung hăng thích
bạo động chọn nghề võ sĩ hay nghề cảnh sát hình sự. Thí dụ khác: người mắc bệnh thiếu nhi
dục/pedophilia đi tu để trở thành nhà tu hành.
Nhập nội/Introjection: Chấp nhận điều tiêu cực người khác gán cho mình mặc dù mình không
có điều tiêu cực đó để tránh va chạm. Thí dụ: ông bố luôn luôn mắng chửi đứa con là “đồ
ngu”, đứa con chấp nhận điều đó (vì không thể cãi lại bố) và càng ngày càng học kém vì mất
tự tin và ý chí học hỏi.
Nhập ngoại/Projection: Đem những điều tiêu cực của mình (mà cái tôi của mình cố ý bỏ qua
không biết đến) gán cho người khác. Thí dụ: ông A là người kiêu căng phách lối xem
thường tất cả mọi người, nhưng ông lại rất thường phê bình người khác là kiêu căng.
Nói vậy nhưng không phải vậy/Reaction formation: hành động hay diễn tả ngược lại với ý định
hay cảm xúc của mình. Thí dụ nói ghét là yêu, nói yêu là ghét. Thí dụ khác: “Sao? Công
việc mới của anh thế nào? Tuyệt, ở đây lương thì cao, xếp và đồng nghiệp lại đối xử với
mình rất tốt”. Thực ra công việc mới rất căng thẳng, xếp mới thì như đứa dở khùng dở điên,
đồng nghiệp mới