Yêu cầu của cây chè với ánh sáng có sự khác nhau giữa các tuổi chè. Chè con cần ánh sáng ít hơn chè lớn, các giống chè lá to yêu cầu ánh sáng ít hơn các giống chè lá nhỏ. Do vậy ở các nương chè kiến thiết cơ bản người ta thường trồng cây chè bóng cho chè bằng các cây họ đậu. Cây trồng xen che bóng cho chè con thích hợp nhất là cây cốt khí.
16 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 4777 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giống chè và kỹ thuật trồng chè, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
138
Yêu cầu của cây chè với ánh sáng có sự khác nhau giữa các tuổi chè. Chè con cần
ánh sáng ít hơn chè lớn, các giống chè lá to yêu cầu ánh sáng ít hơn các giống chè lá
nhỏ. Do vậy ở các nương chè kiến thiết cơ bản người ta thường trồng cây chè bóng cho
chè bằng các cây họ đậu. Cây trồng xen che bóng cho chè con thích hợp nhất là cây cốt
khí.
Tóm lại nhu cầu ánh sáng của cây chè còn nhiều vấn đề phức tạp, cần được tiếp
tục nghiên cứu và giải quyết để sử dụng hợp lý các yếu tố này.
Ngoài các yếu tố trên, không khí, gió, bão cũng là nhưng yếu tố hoặc trực tiếp
hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến đời sống cây chè.
Bài 12. GIỐNG CHÈ VÀ KỸ THUẬT TRỒNG CHÈ
I. GIỐNG CHÈ VÀ CÔNG TÁC CHỌN GIỐNG CHÈ
1. Tiêu chuẩn giống chè tốt: Để đánh giá được một giống chè tốt cần phải dựa vào các
tiêu chuẩn dưới đây:
+ Tiêu chuẩn về sinh trưởng: Giống chè tốt phải có khả năng phân cành mạnh,
vị trí phân cành thấp, cây sinh trưởng khỏe, thích nghi với điều kiện ngoại cảnh.
Về hình thái: Lá to mềm, phiến lá gồ ghề, màu xanh sáng, mật độ búp trên tán cao
và trọng lượng búp lớn. Thời gian sinh trưởng trong năm dài. Giống chè tốt phải có sản
lượng cao và ổn định. Năng suất phải cao hơn giống đối chứng từ 15% trở lên.
+ Tiêu chuẩn về chất lượng: Giống chè tốt phải có hàm lượng tanin cao hơn
giống chè đối chứng 1- 3% và hàm lượng chất hòa tan cao hơn 2- 3%.
+ Tiêu chuẩn về tính chống chịu: Giống tốt phải có khả năng thích nghi cao với
điều kiện ngoại cảnh, phải có khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh, chịu hạn, chịu rét
2. Phương pháp chọn giống chè: Dựa trên những đặc điểm của giống chè tốt, cần đi
theo hướng chọn lọc trên các giống chè sẵn có là chính. Đồng thời tích cực nhập nội,
thuần hóa những giống chè tốt trên thế giới. Từ đó tiến hành lai tạo hoặc gây đột biến ở
một mức độ nhất định, để tạo ra những giống chè mới không có sẵn trong thiên nhiên.
Trình tự các bước như sau: Thu thập giống ở trong và ngoài nước làm vật liệu
khởi đầu, sau đó chọn lọc cây tốt; So sánh giống đã được chọn lọc để xác định giống
tốt; Nhân giống tốt sau khi đã tuyển chọn.
+ Các phương pháp cụ thể:
* Lựa chọn hỗn hợp: Là chọn cây tốt trong quần thể nguyên thủy. Hạt hoặc cành
được lựa chọn ở những cây tốt đem hỗn hợp lại, sau đó đem gieo chung và đem giám
định so sánh.
139
* Lựa chọn cá thể: Từ quần thể nguyên thủy chọn ra những cá thể tốt và được
tách riêng thành từng dòng. Sau đó quan sát và theo dõi, chọn ra những dòng tốt đem
giám định và so sánh. Phương pháp này có nhiều ưu điểm và thường được dùng phổ
biến trong công tác chọn tạo giống chè.
* Lựa chọn tập đoàn: Thực chất là chọn hỗn hợp, song từ tập đoàn nguyên thuỷ
tìm ra những nhóm giống có đặc tính khác nhau, sau đó tiến hành chọn lọc hỗn hợp các
nhóm đã được phân lập.
* Tạo giống chè bằng phương pháp gây đột biến: Bằng phương pháp gây đột
biến có thể thay đổi một số đặc tính của cây mà nhiều khi lai tạo không tạo ra được.
Với các nước trồng chè tiên tiến phưong pháp này được ứng dụng rộng rãi và thu được
kết quả tốt như ở Nhật Bản, Gruzia...
* Lai giống: So với các phương pháp tạo giống khác thì la i giống tương đối khó
thực hiện và chậm. Vì thành công của lai giống phụ thuộc chặt chẽ vào chọn cặp bố mẹ
và chọn dòng lai để theo dõi giám định so sánh.
3. Một số giống chè mới có triển vọng ở nước ta:
+ Giống chè PH1: Được chọn bằng phương pháp lựa chọn cá thể từ quần thể chè
Manipur, thuộc thứ chè Ấn Độ nhập nội từ Ấn Độ vào Phú Hộ năm 1920.
Cây gỗ vừa (10 m) tán to, góc độ phân cành rộng, vị trí phân cành thấp, nhiều
cành cấp I, phiến lá to 23 cm2, xanh đậm, phiến lá nhẵn, phẳng, búp to. Năng suất đại
trà đạt 8 - 10 tấn/ha, có nơi đạt 15-20 tấn/ha. Chất lượng búp chè 1 tôm + 2 lá có hàm
lượng tanin 33,2%, hàm lượng chất hòa tan 46,6%, thích hợp cho việc chế biến chè
đen. Chống hạn tốt, hay bị bệnh thối búp và sâu đục thân. Hiện nay giống PH1 đang
được phát triển rộng rãi trong sản xuất. Đặc biệt ở các vùng chè cung cấp nguyên liệu
cho nhà máy chế biến chè đen xuất khẩu.
+ Giống TRI 777: Được Viện nghiên cứu chè Srilanca nhập vào Srilanca từ
những năm 1937-1938 chọn tạo từ hạt giống chè Shan Chồ Lồng (Mộc Châu - Sơn La).
Năm 1977 được nhập trở lại Việt Nam. Thuộc thứ chè Shan, cây gỗ vừa (10 - 15m),
tán rộng 0,70m, điểm phân cành thấp (5cm), góc độ phân cành rộng (520), số cành cấp
I nhiều (10,8 cành), diện tích lá to (28cm2 ), hình hơi thuôn dài, R = 2,55, lá màu xanh
đậm, có ít lông tơ, phiến lá nhẵn, góc lá hơi hẹp, búp nhỏ (0,74 g/búp, cuống lá nhỏ,
ngắn. Năng suất bình quân đạt 7,82 tấn/ha (chè 2-8 tuổi) cao hơn giống chè Trung Du
đối chứng 13-18%. Năm 8 tuổi ở Phú Hộ, giống này đạt năng suất 11tấn/ha, giống chè
TRI 777 tán lá hơi hẹp, do vậy cần phải trồng dày hơn.
Chất lượng: Búp chè 1 tôm + 2 lá có hàm lượng nước 75%, tanin 30,5%, chất hòa
tan 42,5%. Thích hợp cho việc chế biến chè xanh, chè đen. Chống chịu với các loại rầy
xanh, nhện đỏ, bọ cánh tơ, bị bọ xít muỗi hại nặng, chịu khô hạn tốt.
140
Hiện nay giống chè IRT 777 được phát triển rộng rãi trong sản xuất. Đặc biệt là ở
các vùng chè sản xuất nguyên liệu cung cấp cho nhà máy chế biến chè xanh đặc sản,
chè Ô Long, chè Nhật...
+ Giống chè 1A: Được chọn lọc từ quần thể chè Manipur lá đậm thuộc thứ chè
Ấn Độ nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam năm 1920 tại Phú Hộ. Loại cây gỗ vừa, lá to
(54cm2) mềm, màu xanh vàng, phiến lá hơi tròn, gợn sóng, búp 1 tôm + 2 lá : 0,9
gam/búp, ít lông tơ, vị trí phân cành thấp, tán rộng, mật độ búp trên tán cao. Năng suất
đạt 10,8 tấn/ha, cao hơn giống Trung Du đối chứng 33,5%. Búp chè 1 tôm + 2 lá hàm
lượng tanin 34,8%, chất hòa tan 45,0%, thích hợp cho việc chế biến chè xanh và cả chè
đen..
+ Dòng chè TH3: Được chọn lọc theo phương pháp lựa chọn cá thể từ thứ chè
Trung Quốc lá to, thu thập ở vùng Tô Hiệu - Lạng Sơn. Cây gỗ nhỏ, sinh trưởng khỏe,
phân cành thấp, mật độ búp trên tán cao, trọng lượng búp lớn. Năng suất đạt 13,5
tấn/ha, cao hơn giống Trung Du đối chứng 53,2%. Búp chè 1 tôm + 2 lá có hàm lượng
tanin là 32,3%, chất hòa tan 47,8% thích hợp cho cả việc chế biến chè xanh và chè đen
có chất lượng tốt, hương thơm tự nhiên, vị chát đậm. Chịu rét, chịu hạn khá, chống
chịu sâu bệnh ở mức trung bình. Riêng đốm mắt cua bị hại nặng gây rụng nhiều lá thì
gây ảnh hưởng lớn tới năng suất.
+ Giống LDP1 và LDP2: Là 2 giống chè lai, mẹ là giống Đại bạch trà (Trung
Quốc), có chất lượng thơm ngon nổi tiếng nhưng năng suất thấp. Bố là giống PH1 có
năng suất cao. Giống do Viện nghiên cứu chè Phú Hộ lai tạo. Hai giống này đều giữ
được hương vị thơm ngon của Đại Bạch Trà, đồng thời có năng suất cao(3,5-4,0 tấn
búp tươi /ha). Lá hình bầu dục daì,tương đối dày, màu xanh nhạt. Ra búp sớm và kết
thúc muộn, búp nhỏ, trọng lượng búp0,48-0,55 g. Tính thích ứng rộng, có thể trồng ở
vùng nóng và lạnh. Hiện nay giống này chủ yếu trồng ở các tỉnh phía Bắc, đang trồng
thử ở Lâm Đồng.
+ Giống chè Shan TB14: Do Trung tâm thực nghiệm Nông nghiệp Bảo Lộc
tuyển chọn từ giống chè Shan Trấn Ninh. Lá màu xanh nhạt, hình thon dài, tôm có
tuyết trắng, chất lượng tốt, phù hợp chế biến chè hương và chè đen. Hiện nay giống
TB14 được coi là giống chủ lực trong việc thay đổi cơ cấu giống chè ở phía Nam.
+ Các giống chè nhập nội: Trong những năm qua, song song với công tác chọn
tạo giống chè mới ở trong nước, chúng ta đã đẩy mạnh công tác nhập nội giống chè tốt
từ những nước có kỹ thuật sản xuất chè tiên tiến. Như các giống TRI 2023, TRI
2025,TRI 2043, DT- 1 từ Srilanca. các giống Đại Bạch Trà, Kỳ Môn từ Trung Quốc,
giống Yabukita từ Nhật Bản... tỏ ra thích nghi cao và chất lượng rất tốt. Đặc biệt là
dùng để chế biến chè xanh, chè ôlong chất lượng cao. Tuy nhiên, điều hạn chế lớn nhất
của các giống chè này là năng suất thấp, búp nhỏ rất tốn công thu hái.
141
II. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC CHÈ KIẾN THIẾT CƠ BẢN
1. Kỹ thuật trồng chè bằng hạt:
Phương pháp trồng chè bằng hạt là phương pháp phổ biến và đơn giản hơn cả.
Trồng chè bằng hạt có thể được tiến hành theo những hình thức sau.
Gieo hạt trong vườn ươm, sau đó bứng cây con trồng ra ngoài nương. Ưu điểm
của hình thức này là: Tiết kiệm được giống, tiện cho việc chăm sóc, quản lý cây con,
có điều kiện để sản xuất được cây con to, khỏe, đồng đều. Tuy nhiên hình thức này yêu
cầu kỹ thuật cao, giá thành cây con cao.
Gieo hạt thẳng ra nương: Ưu điểm của hình thức này là đơn giản, dễ làm, đỡ tốn
công, giá thành hạ nhưng không đáp ứng được với những nơi có thời vụ trồng chè khác
xa với thời vụ thu hoạch quả. Sau đây là nội dung của hình thức gieo thẳng hạt chè ra
nương.
+ Chọn đất và khai hoang: Chọn loại đất phù hợp với cây chè, độ dốc tối đa là
250, tầng canh tác dày, mực nước ngầm sâu, giàu mùn và chất dinh dưỡng, pH từ 4,5 -
6 sau đó tiến hành khai hoang, dọn dẹp tàn dư, cày sâu, nếu chưa trồng chè thì tiến
hành gieo cây phân xanh để cải tạo đất.
Phải xác định rõ phạm vi, ranh giới, khai hoang, không xâm phạm rừng đầu
nguồn, rừng gỗ quý. Thiết kế khai hoang phải phù hợp với quy mô sản xuất, phù hợp
với các yêu cầu vệ quan hệ dân sinh, kinh tế. Việc khai hoang phải được tiến hành
đúng thời vụ, không khai hoang vào mùa mưa, khai hoang phải kết hợp chặt chẽ với
các biện pháp chống xói mòn.
+ Thiết kế đồi nương chè: Xây dựng hệ thống đường sá thuận tiện cho đi lại và
vận chuyển sản phẩm (Lưu ý các loại đường và tiêu chuẩn xây dựng: Đường trục
chính, đường liên đồi, đường lô, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, bể chứa, đai rừng chắn
gió...Thiết kế các lô chè có diện tích phù hợp với địa hình).
Không nên bố trí hàng chè quá dài, thường hàng chè dài từ 50-75m là hợp lý, tối
đa là 100m. Tùy theo độ dốc mà hàng chè được bố trí như sau:
Ở độ dốc < 6o hàng chè được bố trí hàng thẳng, hàng xép đưa ra rìa lô.
Ở độ dốc 6-200 hàng chè được bố trí theo đường đồng mức, hàng xép được bố trí
xen kẽ giữa các hàng chè.
Ở dộ dốc 20–250 hàng chè được bố trí theo kiểu bậc thang hẹp.
Dụng cụ để thiết kế hàng chè là thước chữ A. Dùng thước chữ A cắm một hàng
chuẩn sau đó dựa vào hàng chuẩn đó để cắm tiếp 5-10 hàng tiếp theo. Cắm hàng chè,
đặc biệt là cắm hàng xép phải tiến hành cẩn thận, chính xác để có nương chè đẹp, đáp
ứng yêu cầu kỹ thuật.
142
+ Làm đất trồng chè và bón phân:
* Làm đất: Mục đích của làm đất trồng chè là cải thiện lý, hóa tính của đất, làm
tăng tính thấm, giữ nước, giữ phân của đất, làm đất còn có tác dụng cải thiện chế độ
nước, chế độ không khí và làm cải thiện hệ vi sinh vật trong đất. Ngoài ra làm đất còn
có tác dụng diệt trừ cỏ dại và mầm mống sâu bệnh hại. Cần làm đất sớm, làm đất đúng
thời vụ, đất sạch cỏ dại, sạch các loại gốc cây, đá ngầm... Cày máy độ sâu 40-45cm,
nếu không có điều kiện cày máy thì phải đào rãnh sâu tương tự.
* Bón phân: Sau khi làm đất tiến hành rạch hàng sâu 15 - 20cm, rộng 20-25cm.
Bón lót từ 20-30 tấn phân hữu cơ + 100Kg P2O5 cho 1 ha, lấp một lớp đất dày từ 2 -
5cm.
Việc bón phân phải được tiến hành trước khi gieo hạt từ 4 - 5 tháng. Trường hợp
đặc biệt không làm đất sớm được thì phải làm đất, bón phân trước khi gieo hạt 1 tháng.
+ Chuẩn bị hạt giống và kỹ thuật gieo hạt chè: Hạt chè khó bảo quản và dễ mất
sức nảy mầm, do vậy cần lưu ý khi chọn hạt trồng. Chỉ nên thu hoạch quả chè ở những
nương chè từ 5 tuổi trở lên, sinh trưởng khỏe, có năng suất cao, ổn định, phẩm chất tốt,
ít sâu bệnh. Hạt có đường kính bằng 12mm, có hàm lượng nước từ 25 - 38%, tỉ lệ nảy
mầm trên 75%. Có thể xử lý hạt trước khi gieo nhằm rút ngắn thời gian nẩy mầm bằng
cách ngâm hạt chè vào nước từ 12-24 giờ rồi loại bỏ hạt nổi, sau đó xếp hạt chè thành
lớp dày từ 7 - 10 cm, phủ lên trên đó một lớp cát dày 5 cm, tưới ẩm, khi có trên 50 hạt
chè nứt nanh thì đem gieo.
Lượng hạt chè trung bình từ 200 kg đến 300 kg hạt/ha (tương đương với 400 kg
đến 600 kg quả chè). Cách chọn hạt đơn giản nhất là: Quả chè thu vệ đem bóc vỏ,
ngâm nước từ 6 đến 12 giờ loại bỏ hạt nổi, lấy hạt chìm đem gieo.
* Thời vụ gieo hạt chè: Thời vụ gieo hạt chè phụ thuộc vào thời kỳ thu hoạch
quả chè và điều kiện khí hậu (ẩm độ đất, ẩm độ không khí). Miền Bắc thời vụ thích hợp
nhất là từ tháng 10 và tháng 11. Vùng có gió Lào chấm dứt gieo vào tháng 11 (kết thúc
mùa mưa).
Vùng Tây Nguyên tháng 5, tháng 6 để khi chè mọc không bị chết qua vụ đông
rét, hạn (chú ý khâu bảo quản hạt chè vì hai vụ thu quả và trồng không trùng nhau).
* Mật độ gieo và kỹ thuật gieo hạt chè: Mật độ gieo hạt tùy thuộc vào độ dốc,
tính chất đất và phương thức canh tác. Đất dốc, xấu, trình độ canh tác thấp thì gieo dày.
Đất bằng, đất tốt và trình độ canh tác cao thì gieo thưa.
Một số khoảng cách thường được áp dụng là: 1,75m x 0,4 - 0,5m đối với đất
bằng, trình độ canh tác cao hay đối với nương chè giống. 1,50 x 0,4-0,5m đối với đất
có độ dốc trên 200, nếu đất dốc, xấu có thể gieo dày ở mật độ 1-1,25 x 0,4- 0,5m.
143
Hạt chè được gieo thành từng cụm, mỗi cụm từ 5 - 6 hạt, sâu từ 3-5cm, lấp đất
nhỏ lên mặt, dẫm nhẹ cho hạt chè tiếp xúc tốt với đất, phủ lên trên mặt một lớp rơm, rạ,
cỏ tế guột để giữ ẩm, khi hạt chè bắt đầu mọc thì giỡ lớp rơm, rạ cho chè mọc.
Gieo dự phòng 10 - 15% hạt chè cùng với thời kỳ gieo hạt để lấy cây trồng giặm
khi mất khoảng.
2. Kỹ thuật trồng chè bằng cành:
Ngoài phương pháp trồng chè bằng hạt truyền thống, chè còn được trồng bằng
phương pháp nhân giống vô tính, tức là từ một cơ quan dinh dưỡng trong những điều
kiện thích hợp phát triển thành cây chè con hoàn chỉnh.
Có thể nhân giống vô tính chè bằng giâm cành, chiết cành, ghép, nuôi cấy mô tế
bào... Trong thực tế phương pháp được sử dụng phổ biến nhất là phương pháp giâm
cành.
Ở Việt Nam, giâm cành chè được bắt đầu nghiên cứu từ những năm 1960. Đến
nay đã được ứng dụng rộng rãi ở khu vực quốc doanh, tập thể và cả các hộ gia đình.
+ Ưu, nhược điểm của việc trồng chè bằng hình thức giâm cành:
* Ưu điểm: Trồng chè bằng hình thức giâm cành, có hệ số nhân giống cao đáp
ứng được nhu cầu về giống trong sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy 1 ha chè 4 tuổi
thu được 3 triệu hom, đem giâm cành có thể trồng được từ 50 - 70 ha chè. Trong khi đó
một ha chè thu hoạch quả chỉ đem trồng được từ 4 đến 5 ha chè.
Cây chè được trồng bằng hình thức giâm cành giữ nguyên được những đặt tính tốt
của cây mẹ (giống), nương chè đồng đều vệ hình thái tiện lợi cho canh tác, thu hoạch
và chế biến.
Chè trồng bằng phương pháp giâm cành, có khả năng phân cành thấp, nương chè
mau khép tán, mau cho thu hoạch và cho năng suất cao hơn chè trồng bằng hạt.
* Nhược điểm: Trồng chè cành yêu cầu kỹ thuật cao, chi phí lớn, giá thành trồng
mới cao.
+ Kỹ thuật sản xuất cây chè con bằng phương pháp giâm cành:
* Vườn sản xuất hom giống: Vườn sản xuất hom giống phải được trồng bằng
giống đã được chọn lọc, có khả năng cho năng suất cao, phẩm chất tốt. Chế độ trồng,
chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh... thường được ưu tiên (trồng thưa, bón nhiều phân và
hợp lý, đốn tỉa đúng quy trình...) để vườn chè luôn có cành chất lượng tốt dùng làm
hom giống.
* Vườn giâm cành: Hom chè có thể giâm trực tiếp xuống luống đất, phương
pháp này cho tỷ lệ sống và xuất vườn cao, chỉ nên dùng với những nơi nương chè sẽ
144
trồng gần với vườn ươm. Hom chè cũng có thể giâm vào túi đất Polietylen (PE).
Cách làm như sau: Chọn đất đồi tầng dưới màu nâu đỏ, có pH từ 5 - 6, làm tơi,
mịn và cho vào túi PE, sau đó xếp thành luống và cho dàn che cao 1,5 - 1,8m. Chọn
cành bánh tẻ có độ phát dục non, có đường kính 4-5mm, cắt thành từng đoạn hom dài
4cm có 1 lá và 1 mầm nhú, cắt vát rồi cắm vào bầu đất đã chuẫn bị sẵn. Trong quá trình
chăm sóc cần đảm bảo độ ẩm trên dưới 80%, bón phân theo nguyên tắc từ ít đến nhiều
(bảng sau). Cần chú ý công tác phòng trừ sâu bệnh cho chè con trong vườn nhân.
Điều chỉnh ánh sáng trên dàn che theo quá trình sinh trưởng của cây, lúc đầu che
kín, sau giảm dần. Thời vụ giâm cành tốt nhất là tháng 12, có thể ở vụ thu tháng 7-8,
sau 8 tháng đủ tiêu chuẩn cây con xuất vườn đem trồng đại trà.
Bảng 12.1. Quy trình bón phân cho chè giâm cành (cho 1m2 mặt luống)
Thời gian bón N sunphat (g) Supe lân (g) Clorua kali (g)
Sau cắm 2 tháng 9 4 7
Sau cắm 4 tháng 14 6 10
Sau cắm 6 tháng 18 8 14
+ Kỹ thuật trồng chè cành ra nương: Cây con từ 8-12 tháng tuổi, có 6 lá thật,
cao 20cm, đường kính gốc 4 - 5mm là đủ tiêu chuẩn trồng.
Thời vụ trồng: Có thể trồng từ tháng 2 đến tháng 3 với vụ xuân hoặc tháng 8 đến
tháng 9 với vụ thu.
Đất được chuẩn bị sẵn như trồng chè hạt, rạch hàng sâu 20 - 25cm hoặc bổ hố
rộng 20cm sâu 25cm, bón lót 20 - 30 tấn phân chuồng + 100 P2O5/ha, sau đó chọn bầu
đủ tiêu chuẩn để trồng, trồng xong cần phải tưới mỗi ngày từ 1- 2 lít nước/bầu.
- Kỹ thuật chăm sóc chè kiến thiết cơ bản:
Thời kỳ chè con (còn gọi là thời kỳ chè kiến thiết cơ bản). Thời kỳ sau khi chè
được trồng xong qua chăm sóc, đốn tạo hình bắt đầu bước vào thu hoạch. Thời kỳ này
kéo dài 4 năm với chè trồng bằng hạt và 3 năm với chè trồng bằng cành. Chè là cây
công nghiệp lâu năm, do vậy mọi biện pháp kỹ thuật chăm sóc trong thời kỳ kiến thiết
cơ bản có ảnh hưởng quyết định tới khả năng cho năng suất và tuổi thọ của nương chè.
Quy trình kỹ thuật chăm sóc chè kiến thiết cơ bản gồm 5 biện pháp liên hoàn sau:
+ Giặm chè: Mật độ nương chè là cơ sở để đạt năng suất cao, do vậy đồi chè đông
đặc và đồng đều là mục tiêu phấn đấu của người trồng chè. Nếu để nương chè mất
khoảng, không đảm bảo mật độ/đơn vị diện tích sẽ ảnh hưởng đến năng suất chè trong
suốt thời kỳ kinh doanh. Cần giặm ngay từ khi trồng xong, dặm nhiều lần với cây con
145
cùng tuổi, dặm đúng thời vụ và chăm sóc đặc biệt.
Với chè trồng bằng cành: Khi chuẩn bị giống nên dành (10%-15%) cây con để
giặm. Những năm sau dùng cây con ở vườn ươm đem giặm.
Việc giặm chè nên tiến hành ngay trong một, hai năm đầu và cố gắng kết thúc vào
năm thứ 3. Một nương chè đạt yêu cầu là nương chè khi đưa vào kinh doanh đảm bảo
95% mật độ trồng.
+ Phòng trừ cỏ dại: Nước ta có khí hậu ấm và ẩm, cỏ dại phát triển nhanh mạnh
và có nhiều chủng loại khác nhau, gây nhiều tác hại đối với cây chè. Cần làm đất kỹ,
đảm bảo yêu cầu kỹ thuật trước khi trồng chè, trồng đúng mật độ, giặm kịp thời để đảm
bảo mật độ. Bón phân chuồng đã ủ, không có hạt cỏ và thân cỏ còn sống. Ngoài ra có
thể trồng cây phân xanh, cây họ đậu kết hợp với che bóng và trừ cỏ dại cho chè,
phương pháp chè tủ gốc cho chè con cũng là biện pháp hữu hiệu để hạn chế sinh
trưởng phát triển của cỏ dại trong nương chè. Nếu cỏ nhiều cần làm cỏ từ 3 - 4
lần/năm. Dùng cuốc để xới cỏ và dùng tay để nhổ cỏ trong gốc chè, có thể làm cỏ vào
các tháng 2, 5, 8 và 12.
Có thể sử dụng các loại thuốc trừ cỏ như 2,4D, simazin, dalapon, lyphoxim... để
trừ cỏ, lượng dùng từ 6 - 8kg hòa trong 600 - 800 lít nước phun cho 1 ha.
+ Bón phân: Bón phân là biện pháp có ý nghĩa lớn đối với cây chè kiến thiết cơ
bản, nó quyết định đến khả năng đưa nương chè từ gia i đoạn kiến thiết cơ bản vào giai
đoạn kinh doanh sản xuất.
Bón phân làm tăng khả năng sinh trưởng của cây, làm cơ sở cho việc hình thành
bộ khung tán, tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển tốt, tăng khả năng chống chịu với các
điều kiện ngoại cảnh và sâu bệnh. Tuy nhiên để tăng hiệu quả phân bón người cán bộ
kỹ thuật cần căn cứ vào tình hình sinh trưởng của cây, điều kiện đất đai, điều kiện thời
tiết khí hậu... để điều chỉnh lượng bón cho thích hợp. Các năm sau lượng phân bón cho
chè thực hiện như chè kinh doanh (xem bảng 12.2).
+ Trồng xen cây họ đậu, cây che bóng và biện pháp nông lâm kết hợp:
* Trong những năm đầu: Khi chè chưa giao tán, việc trồng xen cây họ đậu vào
giữa hai hàng chè có nhiều tác dụng tốt. Tận dụng được đất đai, phủ đất chống xói mòn
và giữ độ ẩm cho đất. Hạn chế được cỏ dại. Cải thiện được thành phần cơ giới đất, làm
cho đất tơi xốp, thoáng khí, tăng lượng vi sinh vật có ích cho đất, làm tăng đáng kể các