1. Đặt vấn đề
Dư Hoa là một trong những cây bút quan trọng của nền văn học Trung Quốc
đương đại. Ông không chỉ nổi tiếng trong nước mà tác phẩm của ông còn được đón
đọc rất nồng nhiệt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Dư Hoa sinh ngày 03/04/1960 tại
Sơn Đông, sau cùng cha mẹ chuyển tới huyện Hải Diêm - tỉnh Chiết Giang - Trung
Quốc. Ông bắt đầu sáng tác từ 1983, đến nay đã xuất bản 4 tiểu thuyết, 6 tập
truyện vừa và ngắn, 3 tập tuỳ bút. Tác phẩm của Dư Hoa được dịch ra nhiều thứ
tiếng và xuất bản tại nhiều nước như Mỹ, Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Thụy Điển, Hy
Lạp, Na Uy, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Việt Nam. Tác phẩm chính có:
Sống, Chuyện Hứa Tam Quan bán máu, Huynh đệ, Hò hét trong mưa bụi, Tình yêu
cổ điển, Tôi không có tên. Trong đó các tác phẩm Sống, Chuyện Hứa Tam Quan
bán máu, tập truyện Tình yêu cổ điển, và tiểu thuyết Huynh đệ được dịch giả Vũ
Công Hoan chuyển ngữ sang tiếng Việt và Nxb.Công an Nhân dân xuất bản được
độc giả đón nhận khá nồng nhiệt [1]. Tuy nhiên, hiện ở Việt Nam chưa có một công
trình nào dành sự quan tâm thoả đáng cho Huynh đệ. Bài viết của chúng tôi bàn
về một phương diện trong nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết này là giọng điệu tự sự.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giọng điệu tự sự trong tiểu thuyết Huynh đệ của Dư Hoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci. Science., 2010, Vol. 55, No. 7, pp. 38-46
GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT
HUYNH ĐỆ CỦA DƯ HOA
Nguyễn Thị Hưởng
Trường Đại học Hà Nội
1. Đặt vấn đề
Dư Hoa là một trong những cây bút quan trọng của nền văn học Trung Quốc
đương đại. Ông không chỉ nổi tiếng trong nước mà tác phẩm của ông còn được đón
đọc rất nồng nhiệt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Dư Hoa sinh ngày 03/04/1960 tại
Sơn Đông, sau cùng cha mẹ chuyển tới huyện Hải Diêm - tỉnh Chiết Giang - Trung
Quốc. Ông bắt đầu sáng tác từ 1983, đến nay đã xuất bản 4 tiểu thuyết, 6 tập
truyện vừa và ngắn, 3 tập tuỳ bút. Tác phẩm của Dư Hoa được dịch ra nhiều thứ
tiếng và xuất bản tại nhiều nước như Mỹ, Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Thụy Điển, Hy
Lạp, Na Uy, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Việt Nam. Tác phẩm chính có:
Sống, Chuyện Hứa Tam Quan bán máu, Huynh đệ, Hò hét trong mưa bụi, Tình yêu
cổ điển, Tôi không có tên... Trong đó các tác phẩm Sống, Chuyện Hứa Tam Quan
bán máu, tập truyện Tình yêu cổ điển, và tiểu thuyết Huynh đệ được dịch giả Vũ
Công Hoan chuyển ngữ sang tiếng Việt và Nxb.Công an Nhân dân xuất bản được
độc giả đón nhận khá nồng nhiệt [1]. Tuy nhiên, hiện ở Việt Nam chưa có một công
trình nào dành sự quan tâm thoả đáng cho Huynh đệ. Bài viết của chúng tôi bàn
về một phương diện trong nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết này là giọng điệu tự sự.
2. Nội dung nghiêu cứu
2.1. Giọng điệu lạnh lùng, từng trải
Lối kể chuyện khách quan, lạnh lùng của Dư Hoa trong tiểu thuyết Huynh đệ
thể hiện ở ngay cách gọi tên nhân vật trong tác phẩm. Ông như người đứng tách
biệt ra trước cuộc sống, không tỏ ra mảy may động lòng khi nhắc đến nhân vật, dù
đó là một người tốt, một người có số phận đáng thương hoặc một người tráo trở,
một kẻ đầu cơ, độc ác hay một người nhà quê nghèo khó, từ nhân vật chính đến các
nhân vật phụ, từ người có tên đến người không tên đều được gọi bằng một giọng
điệu không tỏ ra yêu quý, cũng không căm ghét, không bênh vực cũng không lên
án. Ví như nhân vật Lý Trọc được gọi là: Lý Quang Đầu, chú bé nghèo khó, thằng
nhóc lưu manh, thằng nhóc khốn kiếp, thằng lỏi con, cậu bé, địa chủ con, “cái mông
38
Giọng điệu tự sự trong tiểu thuyết Huynh đệ của Dư Hoa
đít non”, “vua mông đít”, diêm vương tí hon, thằng Lý Trọc, ma vương sống giữa cõi
người, một nhà buôn trời sinh, Lý Xưởng trưởng, nhà buôn rác thải, Lý Tổng giám
đốc, nhà tỉ phú, nhà siêu tỉ phú, cậu, hắn, hắn ta, anh ta. . . ; nhân vật Tống Cương:
cậu bé tội nghiệp, địa chủ con, anh, chàng trai khôi ngô, anh chàng yêu văn học. . . ;
nhân vật Tống Phàm Bình: thầy giáo Tống Phàm Bình, thầy giáo trung học, danh
nhân của thị trấn Lưu, Tống Phàm Bình cao to, người đàn ông có thân hình khôi
ngô, chàng rể, người chồng tái hôn, bố đẻ Tống Cương, bố dượng Lý Trọc, “địa chủ
Tống Phàm Bình”. . . ; đám đông quần chúng thì được gọi là: đàn ông, đàn bà, người
già, người trẻ, phụ nữ, trẻ con, những con vật tội nghiệp, một lũ dốt nát, bọn bịp
bợm đĩ thoã, bọn nhà báo, lũ nhà quê. . .
Trong tác phẩm của mình, Dư Hoa hướng tới nhiều loại người và có lúc người
đọc có cảm giác như ông chán ghét tất cả. Ngòi bút của ông cứ chờn vờn như sẵn
sàng lia bất kì đối tượng nào lên trang giấy. Bởi vậy, nhân vật của Dư Hoa hầu như
không có nhân vật nào hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Họ luôn có một kết cục
bi thảm do chính tính cách của họ mang lại. Với Dư Hoa, việc quá nhân ái, bao
dung, hi sinh hết mình cho người khác cũng là một nhược điểm. Cái nhìn xã hội
của Dư Hoa tỏ ra sắc sảo với những mặt trái của xã hội. Con người trong xã hội
này thật dễ rơi vào những cái tầm thường, xấu xa, đáng cười. Mỗi một trang viết
của ông là một sự thật được nhà văn phóng to, tô đậm để cho ta dễ thấy, phải thấy.
Ông khiến người ta cười, rồi giật mình và chua chát nhận ra những bất công cùng
với những thói hư tật xấu nhan nhản trong cuộc đời này, trong mỗi người. Có thể
nói, nhà văn đã truyền sang ta một ý thức tỉnh táo: đừng ảo tưởng là sẽ có một sự
công bằng trong xã hội, đừng ảo tưởng có một nhà doanh nghiệp làm giầu một cách
trong sạch và chính trực, đừng ảo tưởng nhà văn nhà báo là người chỉ biết nói sự
thật, đừng ảo tưởng một người con gái ngây thơ sẽ suốt đời là một người vợ ngoan,
đừng ảo tưởng một ai tốt với người khác thì sẽ luôn được đền đáp và sẽ có một kết
cục tốt đẹp, đừng ảo tưởng một ngày nào đó mình không sa ngã trước sức cám dỗ
ghê gớm của cuộc sống. . .
Huynh đệ tạo dựng một không gian bức bối, ngột ngạt, điên đảo. Nhà văn đã
dồn nén tất cả sự phẫn uất tột độ vào trong một giọng điệu khách quan, lạnh lùng
đến mức tàn nhẫn để kể lại cơn ác mộng, những bi - hài kịch khó tin. Vốn là một
nhà văn rất ít khi miêu tả các nét về ngoại hình của nhân vật, nhưng chỉ cần vài
nét phác họa mang tính chất lược thuật một cách đơn sơ cũng đủ làm nổi bật bản
chất của sự việc. Đặc biệt hơn, với những đoạn văn ít ỏi như vậy đã bộc lộ rất rõ
giọng điệu khách quan, lạnh lùng của tác giả. Ví dụ: “Cuối cùng, chủ nhân của năm
cái mông cũng lao ra giận dữ, nghiến răng nghiến lợi, the thé thét lên, khóc khóc,
mếu mếu. Khóc khóc mếu mếu là cái mông be bé không đáng nhắc đến trong con
mắt của Lý Trọc, một bé gái mười một, mười hai hay mười ba tuổi, hai tay ôm
mặt, khóc đến nỗi toàn thân run bần bật, cứ làm như cô bé vừa bị Lý Trọc cưỡng
hiếp, chứ không phải bị nhòm trộm (. . . ). Sau khi cái mông tròn như cuộn lại đi xa,
cái mông bé tẻo teo khóc khóc mếu mếu cũng đi nốt, một cái mông gầy gầy xương
39
Nguyễn Thị Hưởng
xương buột mồm chửi Lý Trọc, phì phì nhổ bọt vào đầy mặt cậu, sau đó giơ tay lau
mồm mình, rồi cũng bỏ đi (. . . )” [1;tập 1;14, 15]. . . Lời văn ở đây chứa đựng một
điều gì như một sự mỉa mai, ánh mắt soi mói, giọng văn tỉnh khô, lại pha chút đả
kích khi khám phá ra bản năng sinh lí ở những hành động có vẻ ngẫu nhiên và vô
tình.
Dư Hoa được giới phê bình văn học Trung Quốc đánh giá là “người kế thừa
và phát triển tinh thần Lỗ Tấn tiêu biểu nhất” [6]. Trên phương diện ngôn ngữ, Dư
Hoa tỏ ra rất sắc sảo khi kế thừa và phát triển giọng điệu chủ quan của Lỗ Tấn,
đặc biệt là ở việc lấy đám đông để khắc sâu vào bản chất đối tượng. Những cảnh
tượng người đông nghìn nghịt chen chúc nhau trên phố lớn “hò hét và ca hát như
những đàn chó to chó nhỏ”, những tên Hồng vệ binh càng ngày càng đông, những
người dân bị phê đấu, đội mũ cao, đeo biển gỗ cũng càng ngày càng nhiều trong Đại
Cách mạng văn hoá; những đám đông túm tụm lại chỉ trỏ và bàn tán mỗi khi thị
trấn Lưu có xô xát, đánh nhau, có đám cưới, đám ma, có những cuộc thi đấu thể
thao hay những sự kiện văn hoá lớn. . . Nhà văn viết về họ với tính chất là một hiện
tượng xã hội phổ biến. Mỗi lúc như vậy, nhà văn phát huy tối đa các giác quan để
có thể mô tả chi tiết, thậm chí có những đoạn văn giống như những thước phim tài
liệu quay chậm trước mắt người đọc.
Với người kể chuyện ngôi thứ ba, Dư Hoa đã kế thừa một cách xuất sắc phương
pháp kể truyền thống. Người kể chuyện giấu mặt này không bao giờ tham gia trực
tiếp vào câu chuyện nhưng lại kể với tư thế của người trong cuộc. Tuy nhiên, mặc
dù không can thiệp vào nhưng những nơi những chỗ cần đến một cái nhìn mang
tính chất lịch sử kinh nghiệm thì điểm nhìn lại được chủ quan hoá bằng vốn sống
cá nhân, mà kinh nghiệm cá nhân trong nghệ thuật trở thành một giá trị. Lúc này
giọng văn lại trở nên từng trải, hiểu đời, hiểu nhân vật. Chẳng hạn như sau vụ Lý
Trọc nhòm trộm trong nhà vệ sinh bị bắt quả tang (câu chuyện này cũng đã từng
xảy ra cách đó mười bốn năm với bố hắn), người kể chuyện đã quay ra lí giải nguyên
nhân sự việc bằng vốn sống của bản thân mà chỉ có những người phải sống cả hai
thời đại như tác giả mới có thể hiểu được: “Bây giờ khắp thế giới chỗ nào cũng có
đàn bà hở mông ngúng nga ngúng nguẩy, trong vô tuyến truyền hình, trong phim
ảnh, trong VCD, trong DVD, trên quảng cáo, trên họa báo, trên bút bi dùng để
viết chữ, trên bật lửu dùng để hút thuốc (. . . ). Ngày xưa đó là một bảo bối, vàng
không đổi, bạc không đổi, châu báu cũng không đổi. Ngày xưa đành phải ra nhà
vệ sinh nhòm trộm, cho nên mới có tiểu lưu manh như Lý Trọc bị tóm cổ tại chỗ,
mới có đại lưu manh như bố Lý Trọc bị mất mạng tại chỗ” [1;tập 1;11,12]. Với lối
kể chuyện ấy, người đọc dù ở bất cứ không gian, thời gian nào đi chăng nữa cũng
có thể hiểu tận tường bản chất của câu chuyện kể. Cái nhìn mang tính kinh nghiệm
lịch sử ấy cũng chính là điều mà nhà văn Dư Hoa muốn đem đến cho độc giả khi
viết Huynh đệ. Giọng từng trải còn được thể hiện ở việc Dư Hoa tỏ ra rất hiểu tâm
lí nhân vật của mình dù nhân vật ấy là một đứa trẻ, một tập thể, là đàn ông, đàn
bà, là người giàu có hay là kẻ nghèo khó. . . Bởi vậy, trong tác phẩm, mỗi lúc chuyển
điểm nhìn cho nhân vật cũng như thể hiện tâm lí, tính cách của các nhân vật, nhà
40
Giọng điệu tự sự trong tiểu thuyết Huynh đệ của Dư Hoa
văn trẻ này lại tỏ ra vô cùng tuân thủ các quy luật về tâm lí và lứa tuổi, giới tính
của đối tượng.
2.2. Giọng điệu "umua đen”
Umua là sự châm biếm có tính chất xây dựng. Đen là chỉ xã hội đáng sợ và
mâu thuẫn. Nhà văn hoà lẫn hoạt kê và nghiêm túc, hí kịch và bi kịch trong sự đối
chiếu biểu đạt tư tưởng trêu đùa không cung kính. Như vậy, nếu umua là sự châm
biếm có tính chất xây dựng thì “umua đen” là sự châm biếm có tính chất phủ định.
Đọc Huynh đệ chúng ta hay bắt gặp các tình huống đầy éo le oái oăm và
nghịch lí: những điều giả dối thường được che đậy trong những hình thức của sự
thật; cái xấu tồn tại ngay trong tâm hồn trẻ thơ; cái ngu muội được che đậy bằng
một bề ngoài hiểu biết; cái không văn hoá được che đậy trong một vỏ bọc văn hoá;
cái tàn ác, vô nhân đạo thì được xã hội bảo vệ; cái thiện trở nên lạc loài; đồng tiền
là thước đo mọi giá trị ngay cả trong lĩnh vực tình cảm; những hành động phản văn
minh lại được xem là văn minh nhất. . . Đáng nói hơn, khi sự che đậy ấy chỉ là một
động tác đầy vụng về, ngu xuẩn, nó trở thành cái gây cười, cái hài hước (umua).
Khi sự che đậy ấy là một hành động có tính toán tinh vi mà cuối cùng bản chất giả
dối xấu xa vẫn bị lộ tẩy thì lúc này nó trở thành cái đáng lên án, mỉa mai, châm
biếm, đả kích và phải bị đánh đổ. Những bi kịch xã hội ấy được nhà văn lột tả lại
bằng một giọng văn hài hước trong một hình thức của hí kịch. Điều này mang lại
một thực tế là cái cười mang tính chất umua đen.
Như vậy, trong tác phẩm này, chúng ta có thể nhận thấy có hai cấp độ là
umua và umua đen. Nhưng xét về nghệ thuật biểu hiện trong tác phẩm này thì cấp
độ umua ở đây chỉ là một nấc thang để cho tính chất umua đen được thể hiện.
Là một nhà văn có thiên hướng viết về những cái tiêu cực trong xã hội, Dư
Hoa thường đặt con người vào những hoàn cảnh với những tình huống éo le để từ
đó lột tả ra bản chất của vấn đề. Vì vậy, thật dễ để tìm ra những oái oăm mà đầy
nghịch lí trong cuốn tiểu thuyết Huynh đệ. Dư Hoa đã không ngần ngại đưa vào
tác phẩm của mình đầy rẫy những hình ảnh mang nghịch cảnh oái oăm nhưng lại
lột tẩy được bản chất của cuộc sống như: Lý Trọc có bố đẻ bị chết chìm trong hố
phân công cộng vì nhòm trộm mông đàn bà khi cậu ta chưa được sinh ra, còn hắn
thì mười bốn năm sau lại bị bắt quả tang vì nhòm trộm mông đàn bà trong nhà vệ
sinh công cộng. Người cứu vớt bố cậu ta từ dưới hố phân lên lại chính là người sáu
năm sau trở thành bố dượng của cậu, còn người bắt quả tang và trực tiếp áp tải cậu
ta đi giễu phố rồi đến đồn công an lại là một người cứ mở mồm ra là nói đến thơ
văn nghệ thuật, đạo đức và những lời giáo huấn nhưng cũng chính hắn lại “thường
xuyên nhòm trộm mông đàn bà trong nhà vệ sinh (. . . ). Hôm ấy, nhà thơ Triệu vốn
cũng chuẩn bị đến nhòm trộm mông đàn bà” [1;tập 1;45], sau này chính anh ta cũng
là một trong số những người “mua bí mật mông Lâm Hồng” bằng một bát mì Tam
tiên. “Sau khi nhòm trộm mông đàn bà trong nhà vệ sinh, Lý Trọc thân bại danh
liệt” [1;tập 1;27], trở thành một “cái mông đít non” rồi “vua mông đít”, những người
41
Nguyễn Thị Hưởng
đàn ông lúc trước còn đánh Lý Trọc, cười cợt, chỉ trỏ và chế giễu anh ta nhưng
“ngó trước ngó sau không có ai ở chung quanh, liền ghé sát vào tai hỏi nhỏ” [1;tập
1;28], “bí mật mông đít Lâm Hồng” [1;tập 1;29]. Lý Trọc nhòm trộm mông bị bắt
quả tang là một việc làm tiếng xấu để đời, nhưng hắn ta lại ngay lập tức “nhận ra
giá trị của mình”. Việc bán bí mật mông Lâm Hồng với một giá cố định là một bát
mì Tam Tiên trong gần một năm đã biến một Lý Trọc xanh xao cũng thành “đỏ ra
thắm thịt”. . .
Những tình huống oái oăm một cách khôi hài đã mang lại những mâu thuẫn
cho câu chuyện: Triệu Thắng Lợi và Lưu Thành Công trở thành hai tài tử lớn chỉ
vì chúng có “một bài thơ ngắn bốn dòng” và một truyện ngắn hai trang “in trên tạp
chí in rônêô của Nhà văn hoá huyện” [1;tập 1;13], nhưng ngay một ví dụ văn học
cũng lấy sai, “hai tài tử bự của thị trấn Lưu (. . . ) kiến thức lịch sử cũng không bằng
thằng nhóc hư hỏng nhòm trộm mông đàn bà” [1;tập 1;18]. Đã vậy, hai anh chàng
này lại luôn ra vẻ ta đây là một tài tử lớn. “Khi xơi xơi trách mắng răn dạy, mồm
cậu vẫn đầy ắp ý thơ ý tranh”. [1;tập 1;14].
Đáng nói hơn cả ở đây là tất cả những điều xấu xa, giả dối lại luôn luôn được
che đậy bằng những thứ trang sức loè loẹt và kệch cỡm. Dường như những oái oăm,
những nghịch cảnh trớ trêu là một phần không thể thiếu ở thị trấn bé nhỏ này. Ở
đó, những người “có chức sắc, có máu mặt” trong huyện lại lợi dụng danh nghĩa
làm việc công để thực hiện những mục đích riêng cho cá nhân mình: nhà thơ Triệu
thì lấy danh nghĩa một nhà tài tử lớn của thị trấn Lưu, “đang viết một thiên tiểu
thuyết, viết về câu chuyện một thiếu niên nhòm trộm mông đàn bà trong nhà xí bị
bắt quả tang” [1;tập 1;47] nhằm dò hỏi về “bí mật mông Lâm Hồng” vì không muốn
mất một bát mì Tam Tiên cho Lý Trọc. Đáng cười hơn, khi biết mình đã vào đúng
cái lúc không cần thiết, lại vừa giận mình, vừa tiếc nuối “lắc đầu quầy quậy, tỏ ra
thương cảm vô hạn, nói: - Giá thằng khốn nạn mình vào chậm mười phút nữa thì
hơn” [1;tập 1;52]; bọn cảnh sát thì lấy danh nghĩa “thẩm vấn”, “nhưng không có chút
nào giống như thẩm vấn, trái lại y như họ đang dò hỏi Lý Trọc (. . . ). Năm viên
cảnh sát của đồn công an hàng ngày đã từng ngắm cái mông đẹp của Lâm Hồng qua
lớp vải quần khi cô đi trên phố (. . . ). Sau khi giữ được Lý Trọc, năm viên cảnh sát
không để lỡ mất thời cơ, họ cứ hỏi đi hỏi lại” [1;tập 1;22], trong tâm trạng “giống
như nghe chuyện ma, nét mặt đầy vẻ căng thẳng” [1;tập 1;27]. Là cảnh sát, việc loại
trừ những thói hư tật xấu trong lối sống của người dân, cảnh cáo những việc gây
mất trật tự trị an là một việc đáng làm và cần phải làm nhưng ở đây chúng lại “oán
trách” người đã giúp chúng bắt tội kẻ phạm: “Cái thằng cha họ Triệu không chịu
khó ngồi ở nhà mà viết thơ ca, ra nhà vệ sinh làm gì” [1;tập 1;23]; tai hại hơn nữa,
bọn Hồng vệ binh thì lợi dụng dòng thác Đại Cách mạng mà đánh người, ức hiếp
người, và giết người một cách “hợp pháp”. Chúng có thể ra tay đối với bất kì người
nào mà chúng cho là phản cách mạng. Chúng có thể lục soát và lấy đi (đúng hơn
là công khai cướp bóc) bất kì một thứ tài sản nào của người bị đấu tố. Chúng có
thể đánh đập đến chết người nào mà chúng cho là phản cách mạng. . . Sự đau xót ở
42
Giọng điệu tự sự trong tiểu thuyết Huynh đệ của Dư Hoa
chỗ những người bị chúng ức hiếp lại nhẫn nhịn chịu đựng tất cả không một lời oán
trách, không một sự phản kháng ngay cả khi bị ức hiếp một cách quá đáng. Nguyên
do một phần là vì người dân quá mông muội, ấu trĩ, thiếu sự hiểu biết về pháp luật,
cũng như về những quyền lợi bản thân mình. Mặt khác cũng bởi vì “Trong Đại Cách
mạng văn hoá, cá nhân không có chỗ đứng, không có một vũ đài nào, tất cả thuộc
về chính quyền” [8] cho nên họ không được chính quyền quan tâm, bênh vực, cả
chính quyền cùng đóng một vở diễn khổng lồ nhân danh cách mạng. Sự nhẫn nhục
một cách ấu trĩ và đáng thương của người dân trước sự đàn áp, chà đạp của bọn
Hồng vệ binh đã mang lại một âm điệu bi phẫn và chua chát cho tác phẩm.
Qua Huynh đệ người đọc có thể nhìn thấy ở đây tất cả những gì thuộc về
Trung Quốc trong Đại Cách mạng văn hoá: con người đầy ích kỉ, sẵn sàng tàn sát
lẫn nhau một cách tàn nhẫn ngay cả anh em ruột thịt và những người hàng xóm của
mình. Khắp các đường phố “những tấm áp phích khổ lớn, nơi người dân có thể tự
tay tố khổ hoặc tố giác chính những người hàng xóm láng giềng của mình (. . . )” [7],
ở đó có những lời lẽ cay độc và thô thiển mà “bạn có thể đọc được mọi thứ từ đây,
kể cả chuyện tình dục” [7], họ sẵn sàng sỉ nhục bất kì người nào bị đấu tố bằng cả
hệ thống ngôn ngữ tục tĩu và cả những hành động “nhổ bọt xì mũi vào cổ họ, nắm
dương vật đái tồ tồ vào thân họ”. Họ bỏ hết công việc hàng ngày - những công việc
mưu sinh, mọi nhà máy và xí nghiệp, trường học đều bị đóng cửa. Mọi người, mọi
nhà, mọi ngành ồ ạt đổ xô ra đường, rát cổ cháy họng hô những khẩu hiệu chỉ để
được làm một quần chúng cách mạng. Những người dân bị đấu tố trở thành kẻ thù
cách mạng chỉ bởi vì từ đời ông bà, cha mẹ anh ta là địa chủ, tư sản kinh doanh. . .
Đại Cách mạng văn hoá của xã hội Trung Quốc những năm 60 của thế kỉ
trước, trong cái nhìn của Dư Hoa vừa mỉa mai, bi phẫn, vừa đáng khinh ghét lại
vừa đáng thương, lại được đặt vào trong cái nhìn ngây thơ của Tống Cương và Lý
Trọc khiến cho câu chuyện trở nên chua chát, cười ra nước mắt. Hai đứa trẻ chưa
đầy mười tuổi, ngày nào cũng chứng kiến những bạo lực, nhiễu nhương, những khẩu
hiệu trống rỗng. Đáng nói hơn, chúng cũng là một bộ phận của cách mạng, chúng
cũng là “những đứa trẻ cách mạng”, cũng chạy theo đoàn người biểu tình, cũng rát
cổ khản họng hô theo những khẩu hiệu. Và cũng giống như tất cả người dân của thị
trấn Lưu, chúng làm việc đó một cách hào hứng và đầy thích thú. Bởi vậy mà cái
đáng nói ở đây, là những chua xót, bi phẫn, đáng khóc về nội dung lại được biểu
đạt ra bên ngoài bằng một hình thức hài hước, đáng cười. Cái lẽ ra là bi kịch thì lại
được thể hiện ra ngoài là hài kịch.
Đặc biệt hơn, hai cái có sự đối nghịch nhau lại được đặt cạnh nhau, đôi khi
tưởng như không thể tồn tại bên nhau thì nó lại chính là hai mặt của một vấn đề.
Cho nên, nó đã tạo nên một sắc thái umua đen cho giọng điệu của câu chuyện.
Đại Cách mạng lấy đi của biết bao người sự êm ấm, làm tan nát bao nhiêu
gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người dân thị trấn, nhưng chính
Đại Cách mạng văn hoá cũng mang đến cho bao kẻ sự thích thú và những cơ hội
làm giàu mới. Khi người dân cả thị trấn Lưu đổ xô ra đường làm cách mạng, giác
43
Nguyễn Thị Hưởng
ngộ cách mạng, thì một số đông khác lại nhanh chóng nhận được một cơ hội làm
giầu cho họ: ông Vương bán kem, lợi dụng các cuộc diễu hành cách mạng để bán
kem của mình. “Ông Vương phất to, mỗi que kem ông bán ra đều là một giấy chứng
nhận cách mạng, ông ta hô mau mau đến mua, mua kem của tôi đều là anh chị em
giai cấp, không mua kem của tôi đều là kẻ thù giai cấp” [1;tập 1;143]; “Anh Đồng,
ông Quan, ông Trương tổ chức một dây chuyền sản xuất thương tua đỏ liên hoàn”
[1;tập 1;198], để bán cho quần chúng cách mạng; “Dư nhổ răng là một kẻ đầu cơ
cách mạng, khách hàng đi đến trước mặt, ông không hỏi thành phần giai cấp, khách
nằm xuống ghế mây, ông cũng không vặn hỏi thành phần giai cấp, khách há mồm
để ông nhìn rõ chiếc răng sâu, ông vẫn tỉnh bơ không hỏi thành phần giai cấp. Ông
sợ ngộ nhỡ một khi hỏi thành phần giai cấp, sẽ tuột khỏi tay một cuộc làm ăn, mất
một khoản thu nhập” [1;tập 1;196]. Nghịch cảnh ở chỗ bọn đầu cơ cách mạng ngày
càng giàu lên. Chúng lợi dụng việc làm cách mạng để đục nước béo cò, trong khi
những người làm cách mạng chân chính vẫn u mê mù quáng.
Ngoài ra, bên cạnh những hình ảnh đầy sức ám ảnh như cái chết của Tống
Phàm Bình, hình ảnh hai đứa trẻ lang thang đi tìm bố trong buổi trưa mùa hè nắng
như đổ lửa, tiếng khóc bi thảm của Lý Lan và các con trong ngày đưa tang anh, cái
chết của Tôn Vĩ, của bố Tôn Vĩ, sự điên loạn vì đau khổ của mẹ Tôn Vĩ. . . người
đọc còn có thể tìm thấy các hình ảnh đầy kiêu ngạo và tự mãn của những tên Hồng
vệ binh, và s