TÓM TẮT
Tín ngưỡng Cá Ông là bộ phận quan trọng của lớp văn hoá biển Nam Bộ với chiều kích của hàng trăm
triệu năm thành tạo về sinh thái tự nhiên và hàng trăm năm thành tạo về sinh thái nhân văn. Từ góc nhìn
Sinh thái văn hóa, tín ngưỡng Cá Ông là tập hợp của những mô thức ứng xử, trải nghiệm của cư dân
Nam Bộ trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên biển đảo. Đó là những mô thức về nhận thức
đối tượng thờ, mô thức nhân hóa với hệ thống danh xưng, mô thức thần hóa với quá trình thiêng hóa và
biểu tượng hóa, mô thức tang chế với quá trình lập mộ, xây lăng và mô thức nghi lễ thờ cúng. Tất cả
đều được dung hợp trong tín ngưỡng được xem là nổi bật nhất của cư dân vùng biển đảo phương Nam.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góc nhìn sinh thái văn hóa về các mô thức ứng xử, trải nghiệm của cư dân biển đảo Nam Bộ trong tín ngưỡng Cá Ông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 72 (06/2020) No. 72 (06/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
15
GÓC NHÌN SINH THÁI VĂN HÓA VỀ CÁC MÔ THỨC ỨNG XỬ,
TRẢI NGHIỆM CỦA CƯ DÂN BIỂN ĐẢO NAM BỘ
TRONG TÍN NGƯỠNG CÁ ÔNG
Eco-cultural view on the models of conduct, experience of South island residents
in Ông Fish beliefs
TS. Nguyễn Đăng Khánh
Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Tín ngưỡng Cá Ông là bộ phận quan trọng của lớp văn hoá biển Nam Bộ với chiều kích của hàng trăm
triệu năm thành tạo về sinh thái tự nhiên và hàng trăm năm thành tạo về sinh thái nhân văn. Từ góc nhìn
Sinh thái văn hóa, tín ngưỡng Cá Ông là tập hợp của những mô thức ứng xử, trải nghiệm của cư dân
Nam Bộ trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên biển đảo. Đó là những mô thức về nhận thức
đối tượng thờ, mô thức nhân hóa với hệ thống danh xưng, mô thức thần hóa với quá trình thiêng hóa và
biểu tượng hóa, mô thức tang chế với quá trình lập mộ, xây lăng và mô thức nghi lễ thờ cúng. Tất cả
đều được dung hợp trong tín ngưỡng được xem là nổi bật nhất của cư dân vùng biển đảo phương Nam.
Từ khóa: biển đảo, Cá Ông, mô thức, tín ngưỡng, trải nghiệm
ABSTRACT
Ông Fish (the Whale) beliefs are an important part of Southern sea cultural layer with the dimension of
hundreds of millions of years of creation on natural ecology and hundreds of years of creation on human
ecology. From the viewpoint of Cultural Ecology, Ông Fish beliefs are a collection of behaviours and
experiences of Southern residents in the process of interacting with the natural environment of the sea
and islands. These are the models of the awareness of the object for worship, the model of
personalization with the name system, the deification model with the process of sanctification and
symbolization, the funeral model with the process of setting up a tomb, building the tomb and the rituals
of worship. All are integrated in the belief that is considered the most prominent residents of the
Southern islands.
Keywords: island waters, Ông Fish, model, beliefs, experience
1. Đặt vấn đề
Tín ngưỡng Cá Ông là bộ phận quan
trọng trong chiều kích của văn hoá biển
Nam Bộ, mang dấu ấn của hàng trăm triệu
năm thành tạo về sinh thái tự nhiên và hàng
trăm năm thành tạo về sinh thái nhân văn.
Đã có một số công trình của Nguyễn
Thanh Lợi, Nguyễn Duy Thiệu, Nguyễn
Chí Bền và một vài tác giả khác đề cập đến
một vài phương diện về quá trình hình
thành, nội dung và một số nghi lễ thờ cúng,
nhưng từ góc độ sinh thái văn hóa thì chưa
Email: dangkhanhvhdlsgu@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
16
có một công trình nào bàn tới một cách
toàn diện, chuyên sâu và tường minh. Bài
viết này, đứng từ góc độ sinh thái văn hóa
(cultural ecology) của ngành nhân học biển
(maritime anthropology), tìm hiểu những
mô thức ứng xử và sự trải nghiệm, sáng tạo
văn hóa dựa trên tâm lý và bản sắc cộng
đồng thông qua sự thích ứng (adaptation)
giữa cư dân và ngư dân người Việt, người
Hoa, người Khmer trong quá trình tương
tác với môi trường biển đảo. Qua đó, bản
chất và giá trị của tín ngưỡng Cá Ông được
nhìn nhận đúng với vai trò của nó trong đời
sống văn hóa tâm linh của cư dân tại vùng
đất mới phương Nam.
2. Các mô thức ứng xử, trải nghiệm
trong tín ngưỡng Cá Ông
Tín ngưỡng Cá Ông là tập hợp của
những niềm tin, thái độ, hành vi ứng xử
của con người với tự nhiên và với chính
mình nhằm biểu hiện sự tôn kính đối với
Cá Ông, vị Phúc thần của cư dân biển đảo
Nam Bộ. Từ phương diện sinh thái, tín
ngưỡng này là kết quả của sự ứng xử, trải
nghiệm cuộc sống sinh tồn của cư dân làm
nghề đánh bắt và đi lại trên biển với sự
may rủi, bất trắc, phụ thuộc vào tự nhiên,
cũng như những kinh nghiệm ứng xử thực
tiễn với môi trường - một phần tri thức bản
địa vốn được hình thành, tích lũy bao đời
trên nền cảnh sinh thái biển đảo Nam Bộ.
Đó là sản phẩm của sự tương tác
(interaction) với môi trường tự nhiên do
chính cư dân Nam Bộ đạt được và có sự
trải nghiệm thông qua những mô thức ứng
xử dưới đây.
2.1. Mô thức ứng xử, trải nghiệm qua
nhận thức đối tượng thờ
Cá Ông trong số đối tượng thờ của cư
dân và ngư dân Nam Bộ, trước hết được
quan niệm là loài sinh vật biển, to lớn bậc
nhất trong đại dương, một đại diện của môi
trường tự nhiên, của hệ sinh thái biển đảo.
Về mặt nhận thức tín ngưỡng, Cá Ông bắt
nguồn từ quan niệm “vạn vật hữu linh”
(animistic religions) có trong truyền thống
tâm linh xa xưa. Với người Chăm, trong tín
ngưỡng của họ, đối tượng thờ là Cá Voi
sống dưới nước qua linh hồn Pô Riyak -
Thần Sóng Biển. Với tín ngưỡng người
Việt ở Trung Bộ, Cá Ông được thần hóa
thành Thần Biển- một nam thần nên nhà
Nguyễn phong là “Nam Hải Long Vương”.
Còn với người dân vùng đất mới Nam Bộ,
nhất là cư dân từ vùng biển đảo Kiên
Giang tới Bạc Liêu lại xem Cá Ông là nữ
thần biển, do được giao phối với con Rồng
trên Trời nên rất linh thiêng (Phan Thị Yến
Tuyết, 2016, tr. 409). Từ đó, Cá Ông được
siêu thăng thành đối tượng thờ trong tín
ngưỡng nghề ngư. Đây là sản phẩm nhận
thức kết hợp giữa truyền thống tâm linh và
tư duy hướng biển của chủ thể người Việt.
Sự xác tín khác biệt rõ nhất trong mô thức
nhận thức về đối tượng thờ, bên cạnh các
cơ tầng văn hóa biển khác, đó chính là
quan niệm “tại Nam vi thần, tại Bắc vi
ngư” (ở phía Nam là thần, ở phía Bắc chỉ là
cá). Đây là lí do Cá Ông luôn chiếm một
vị trí đặc biệt trong hệ thống thần linh ở
Nam Bộ.
Qua thực tiễn tương tác, trải nghiệm
của việc đánh bắt cá và đi lại trên biển, việc
Cá Ông thở bằng phổi và thường ngoi lên
mặt biển để hít thở được cư dân và ngư dân
Nam Bộ gọi là “lên vọi”, phát âm theo
phương ngữ Nam Bộ là “lên dọi”. Hiện
tượng này được họ quan niệm là may mắn,
thuyền ghe sẽ được nhiều tôm cá và làm ăn
phát tài. Điều này cũng là sự giải thích tại
sao Ông vọi lại là một phần nghi thức quan
trọng trong lễ Nghinh Ông trên biển. Cũng
chính từ thực tiễn trải nghiệm mà hai tập
tính sinh vật học: (i) Cá Ông thường men
NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
17
theo những vật nổi trên mặt biển để bơi vào
bờ, tránh sóng lớn khi biển động; (ii) do
phải ăn nhiều cá nhỏ, nên nơi nào Cá Ông
xuất hiện thì nơi ấy chắc chắn có nhiều cá
(đã được ngư dân đúc kết thành kinh
nghiệm và khi ra khơi, họ dựa vào đó thả
lưới là có mẻ cá đầy). Sự tương tác ấy thật
sự có ý nghĩa bởi hai tập tính đó của Cá
Ông được thể hiện trên cả hai phương diện:
sự chỉ dẫn nơi có nhiều cá để ngư dân đánh
bắt (thế tục); sự cứu độ, hộ mạng người gặp
nạn trên biển (thần linh). Đây có thể xem là
giá trị của sự tương tác đáng chú ý nhất
trong tín ngưỡng Cá Ông, minh chứng cho
mối quan hệ mang tính cộng tồn
(coexistence) giữa con người với sinh vật tự
nhiên trong biển cả. Từ đây, mô thức ứng
xử, trải nghiệm thứ nhất về đối tượng thờ
được khái quát như sau:
Đối tượng
thờ Cá Ông
=
Vật linh +
tín niệm
Nho, Phật,
Đạo
Yếu tố tự
nhiên
Yếu tố thần
hóa
Sinh vật
biển: sự chỉ
dẫn nơi biển
có nhiều cá
để đánh bắt
Thần Biển: sự
cứu độ, hộ
mạng người
gặp nạn trên
biển
Mô thức khái quát này chỉ rõ hai
phương diện mà cư dân biển đảo Nam Bộ
đã ứng xử, trải nghiệm. Bởi không ai có thể
hiểu hơn về cuộc sống của chính họ gắn
với nhận thức truyền đời: tàu thuyền là
nhà, biển cả là quê hương. Đã bao lần
quăng quật với sóng biển, đối mặt với hiểm
nguy, có khi gặp sóng to, gió lớn, mưa bão
dữ dội, tàu thuyền nhỏ bé không thể chống
đỡ, bao nhiêu lần tử thần gọi tên nhưng họ
tin rằng có Cá Ông là vị cứu tinh, sẵn sàng
giúp đỡ nên họ được tiếp thêm động lực để
kiên cường bám biển. Họ coi Cá Ông xuất
hiện là một điềm lành, một sự may mắn, và
coi như một điểm tựa, một chỗ dựa tâm
linh. Qua những nơi điền dã, tiếp xúc với
nhiều ngư dân, chúng tôi nhận thấy, họ có
một xác tín gần như mặc định rằng, Cá
Ông có thể nghe được tiếng người và khi
nghe những lời cầu khấn thì đến ngay lập
tức. Do vậy, tại thị trấn Cần Thạnh, huyện
Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh, trên Ngọc cốt
Cá Ông của Lăng Ông Thủy tướng, ngư
dân ở đây đã tri ân bằng hàng chữ trang
trọng “Hữu cầu tất ứng” cùng câu thơ:
“Biển trời bát ngát mênh mông/ Trong cơn
bão tố Cá Ông cứu người”. Còn tại Bà Rịa
- Vũng Tàu, người dân lại đặt tên cho một
hòn đảo ngoài khơi chưa có người ở là Hòn
Cá Ông hay Hòn Ông.
Điều đáng chú ý trong mô thức ứng
xử, trải nghiệm thứ nhất này là có sự mở
rộng, bổ sung những tín niệm tôn giáo vào
sắc màu “vật linh” quen thuộc. Đó là tín
niệm “âm dương đồng nhất lý” của Nho
giáo, tín niệm mang tính huyền bí trong
nghi lễ thờ cúng của Đạo giáo, và tín niệm
Cá Ông nằm trong thập loại cô hồn, gồm
mười loại của tứ sanh và lục đạo theo quan
niệm của Phật giáo. Vì vậy, các nhà sư
đóng vai trò khá lớn khi thực hành nghi lễ
thờ cúng tại các lăng Ông hay nơi đình
làng. Đây là điểm khác biệt về ứng xử và
trải nghiệm trong quá trình phát triển tín
ngưỡng Cá Ông ở Nam Bộ so với Trung
Bộ. Mô thức nhận thức ấy có ý nghĩa nhân
bản, nhân sinh, lan tỏa những giá trị tâm
linh sang cộng đồng người Hoa, người
Khmer và được họ đón nhận, cộng cảm,
lập bài vị thờ cúng. Nhờ vậy, ý thức bảo vệ
Cá Ông nói riêng và môi trường sinh thái
biển nói chung được ngư dân gìn giữ, trao
truyền qua nhiều thế hệ, tạo nên những giá
trị truyền thống văn hóa tín ngưỡng đặc
sắc. Nhìn rộng ra một chút, một số cộng
đồng vùng ven biển Thái Bình Dương vẫn
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
18
thờ cá voi, song cách nhận thức, cách thần
hóa như trường hợp Cá Ông ở Nam Bộ thì
hầu như không thấy. Vì tính tiêu biểu, điển
hình ấy mà có nhà nghiên cứu đã mạnh dạn
đề xuất lấy Cá Ông làm hình ảnh đại diện
cho “thương hiệu biển Việt Nam” (Nguyễn
Duy Thiệu, 2011, tr.66).
2.2. Mô thức ứng xử trải nghiệm qua
nhân hóa Cá Ông
Mô thức ứng xử trải nghiệm qua nhân
hóa (personification) là mô thức gắn những
đặc điểm thuộc tính của người cho đối
tượng thuộc thế giới tự nhiên là Cá Ông,
nhằm đưa đối tượng sinh vật đó gia nhập
vào đời sống con người, và đồng thời, ở
chiều ngược lại, là cách đưa con người hòa
hợp với tự nhiên, trở về mái nhà quen thuộc
của Mẹ Tự nhiên (Mother Nature). Bản
chất của quá trình này là sự chuyển dịch
các giá trị từ thiên sinh đến nhân sinh, tạo
ra hệ giá trị mới bằng chính sự trải nghiệm
mà con người đạt được, nhất là sự tiếp thu
và tôn vinh một số đạo lý cổ truyền thấm
đượm tính nhân văn của dân tộc qua hình
tượng Cá Ông, một sinh vật biển có ích
được nhân hoá và biết ơn, kính nghĩa. Đây
là cái lõi nhân văn, lõi hiện thực của tín
ngưỡng Cá Ông. Sự trải nghiệm qua việc
đặt ra một hệ thống danh xưng
(onomasiolgy) bao gồm hàng chục tên gọi
để định danh cho một loài sinh vật biển và
sử dụng rộng rãi cả trong đời sống dân dã
lẫn đời sống cung đình là trường hợp chưa
từng thấy trong các cộng đồng cư dân biển
đảo ở nhiều khu vực trên thế giới. Trong
khi người Chăm chỉ gọi cá Voi là Ông
Limân (ikan limưn) do thần Pô Riyak hóa
thân thì người Việt, ngoài tên gọi “Hải
Thu”, “Hải Tù”, “cá Kiến Đồng”, “Bạch
Tượng” được ghi trong các sách cổ Việt
Nam và Trung Hoa mà nhà nghiên cứu
Nguyễn Thanh Lợi có nhắc đến (trong
2007, tr.62) thì còn hàng loạt danh xưng do
dân gian và do nhà nước phong kiến đặt
cho Cá Ông với mức tôn kính, trang trọng
nhất. Nếu danh xưng do dân gian đặt thì
theo đặc điểm hình dáng, kích thước, nơi
vùng biển xuất hiện hay đặc điểm liên quan
đến nghề biển như Ông Lớn, Ông Cậu, Ông
Khơi, Ông Lộng, Ông Thông, Ông Chuông,
Ông Kìm, Ông Xưa, Ông Đựng, Ông Hoa,
Ông Ngư, Ông Máng, Ông Thoi, Ông Mun,
Ông Đăng, Ngư Ông, Ông Ngư.v.v. Song
danh xưng Cá Ông/ Ông là thông dụng
trong giao tiếp tự nhiên lẫn trong nghi thức
tế lễ. Nếu do triều đình Nguyễn đặt trong
các sắc phong, ngoài Nhân Ngư (đời Minh
Mạng), Đức Ngư (đời Tự Đức), thì danh
xưng trong phong tước “Đại tướng quân”
hay phong thần, từ “Trung đẳng thần” cho
đến “Thượng đẳng thần”. Cũng để tránh kỵ
húy và tiện việc xưng gọi Nam Hải tướng
quân hay Đức Ngư Ông Nam Hải/ Ông
Nam Hải, tại Cần Giờ, dân biển ở đây trang
trọng gọi là Ông Thủy Tướng. Còn thần
hiệu Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tướng
Quân Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần xuất
hiện là do tín ngưỡng Cá Ông có sự đồng
nhất với tín ngưỡng Đại Càn (Tứ vị Thánh
Nương) ở một số nơi tại Nam Bộ. Điều
quan trọng là nội dung danh xưng và tính
chất danh xưng Cá Ông đã bao hàm và phát
triển được ý nghĩa ở hai cấp độ hóa Người
và hóa Thần. Cả hai cấp độ này được hòa
quyện trong mô thức ứng xử, trải nghiệm
vừa Nhân thế vừa Nhiên thế, đặc biệt hơn
còn là Thiên thế. Nhân thế là trong trải
nghiệm giao tiếp với người, Nhiên thế là
trong trải nghiệm giao tiếp với tự nhiên và
Thiên thế là trong trải nghiệm giao tiếp với
thần linh. Sự gặp gỡ về nhân hóa và thần
hóa trong mô thức ứng xử, trải nghiệm
được khái quát sau đây cho thấy ý nghĩa
đặc biệt của quá trình tương tác:
NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
19
Nhân hóa
Cá Ông =
Hệ thống
danh xưng
Giao tiếp với
tự nhiên
Giao tiếp với
thần linh
theo đặc điểm
hình dáng,
kích thước,
nơi xuất
hiện
theo đặc điểm
tôn xưng
phong tước,
phong thần
Đây là một mô thức mở, giàu tính trải
nghiệm, cho thấy mức độ tương tác rất sâu
sắc giữa cư dân biển đảo Nam Bộ với môi
trường tự nhiên. Điều đó góp phần giải
thích vì sao Cá Ông luôn giữ một vị trí đặc
biệt trong hệ thống thần linh ở Nam Bộ.
2.3. Mô thức ứng xử trải nghiệm qua
thần hóa Cá Ông
Đây là mô thức mà con người ứng xử
trải nghiệm sự thiêng hóa và biểu tượng
hóa trong quá trình thần hóa Cá Ông. Khi
thiêng hóa, Cá Ông trở thành một linh thần,
một đấng cứu nhân độ thế, được con người
tôn sùng, thờ phụng. Khi biểu tượng hóa,
Cá Ông sẽ nâng lên thành giá trị vượt thời
gian, không gian của một hình tượng đại
diện cho tinh thần của cả cộng đồng ngư
dân. Vì vậy, qua hàng thế kỉ tồn tại, mô
thức này trở thành một giá trị tâm linh nổi
bật, được cư dân biển đảo gìn giữ, trao
truyền cho các thế hệ đời sau.
Ở phương diện ứng xử, trải nghiệm sự
thiêng hóa, Cá Ông được bao phủ bởi bức
màn kì bí của huyền thoại, truyền thuyết
không chỉ của người Chăm mà còn cả
người Việt. Nếu trong tín ngưỡng của
người Chăm, Pô Riyak (thần Sóng hay vua
Đại Dương), sự ứng xử, trải nghiệm thông
qua hiện tượng “lịch sử chuyển thành
huyền thoại, truyền thuyết”, thì đối với
người Việt, nó lại đến từ nhiều truyền
thuyết liên quan đến những yếu tố thiêng
hóa trong tôn giáo. Chẳng hạn, trong dân
gian vẫn kể chuyện Cá Ông là hóa thân của
Phật Bà Quan Âm chuyên cứu khổ cứu nạn
người đi biển; hay sự thiêng hóa liên quan
đến yếu tố lịch sử, với sự hiển linh của Cá
Ông. Ở mỗi địa phương vùng biển Nam
Bộ, từ biển Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh),
qua Vàm Láng (Tiền Giang) đến vịnh
Xiêm La, đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu
(Kiên Giang) đều có truyền thuyết gắn
với Cá Ông hiển linh liên quan đến sự kiện
cứu Nguyễn Ánh - vị vua sáng lập vương
triều Nguyễn thời kì trốn chạy quân Tây
Sơn truy đuổi. Theo đó, Cá Ông đã đi vào
lịch sử nhà Nguyễn như một trong những
yếu tố thiêng của đất trời, giúp vua lên ngôi
Thiên tử, đúng với quan niệm "tử sinh hữu
mệnh, phú quý tại thiên" của đạo Nho.
Điều này cho thấy yếu tố đặc biệt trong mô
thức trải nghiệm về sự thiêng hóa đó là có
sự dung hợp về màu sắc lịch sử, màu sắc
Phật giáo và cả Nho giáo, phù hợp với cấu
trúc đa nguyên trong tín ngưỡng tâm linh
của người Việt.
Ở phương diện ứng xử, trải nghiệm về
biểu tượng hóa, từ ngọn nguồn khởi sinh,
Cá Ông là biểu tượng cho môi trường biển,
cho hệ sinh thái tự nhiên. Khi hóa thần, Cá
Ông trở thành biểu tượng của đấng cứu độ,
bảo trợ cư dân miền biển, hướng dẫn
thuyền bè và cứu vớt những ngư dân bị
đắm thuyền. Bên cạnh đó, sự trải nghiệm
về Cá Ông còn ở biểu tượng của con vật
dẫn hồn trong nghi lễ cầu khấn xin thần
đưa con người về xứ sở của thần tiên. Từ
đó, mô thức ứng xử, trải nghiệm thứ ba về
thần hóa Cá Ông cũng được khái quát:
Thần hóa
Cá Ông =
Hệ thống
truyền
thuyết,
biểu
tượng
Thiêng hóa Biểu tượng
hóa
Ứng xử, trải
nghiệm qua
huyền thoại hóa,
truyền thuyết hóa
có yếu tố Phật
giáo, Nho giáo
Ứng xử, trải
nghiệm qua
biểu tượng
hóa
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
20
2.4. Mô thức ứng xử, trải nghiệm qua
nghi lễ lập mộ, xây lăng Cá Ông
Thờ cúng Cá Ông là tổng thể của các
hình thức biểu trưng và hành động gắn liền
với nhiều nghi thức (rituals) khác nhau.
Đây là mô thức ứng xử trải nghiệm đặc biệt
về mối quan hệ cộng cảm, cộng mệnh và
niềm tin thiêng đối với Cá Ông.
Sự tương tác và trải nghiệm trong mô
thức ứng xử này đạt được qua nghi thức lập
mộ, xây lăng chính là những giá trị tín
ngưỡng cụ thể trong văn hóa sinh thái biển
đảo Nam Bộ. Trước khi trở thành thần, là
một sinh vật biển được “người hóa” như
vậy, Cá Ông không thể thoát khỏi vòng
sinh tử. Vì thế, khi Cá Ông “lụy” (phát âm
theo phương ngữ Nam Bộ là “lị”, có nghĩa
là “ngã gục, không còn khả năng hoạt
động”), ngư dân tổ chức theo Thọ Mai gia
lễ - nghi thức dành cho người, và thực hiện
nghi lễ linh đình trong ba ngày. Việc đó
được dân làng hồ hởi đón mừng, xem như
một sự kiện trọng đại, bởi Cá Ông không
chỉ thuộc trường hợp “sinh vi tướng, tử vi
thần” mà còn là điềm lành, là phúc đến, bởi
mảnh đất Ông chọn làm nơi yên nghỉ, dân
biển tin rằng sẽ được “Ông phù hộ”, ban
nhiều phúc lộc, vì thế họ có câu truyền
miệng “thấy Ông vào làng như vàng vào
tủ”. Ngư dân từ Bạc Liêu đến Kiên Giang,
cho “Cá Ông lụy là do mải mê nhọc nhằn ra
vào cứu người bị nạn giữa biển khơi nên bị
sẩy thai rồi lụy, còn các Cá Ông con do
chưa đủ ngày tháng ra đời nên khi mẹ lụy,
các Ông cũng lụy theo, vì vậy ngư dân cũng
lập lăng, miếu thờ các Ông Lộng, Ông
Khơi” (Phan Thị Yến Tuyết, 2016, tr.409).
Việc Cá Ông lụy luôn ngửa bụng là vì
muốn giữ trọn tấm lòng thánh thiện gửi trọn
chốn đất lành nơi Ông chọn để con người
thờ phụng. Do vậy, nghi thức dùng tấm vải
điều bọc thi thể Cá Ông trong mai táng
cũng như nghi thức bọc vải đỏ cho Ngọc
cốt Cá Ông ở lăng thờ là thể hiện lòng trân
trọng, sự tri ân thành giá trị biểu tượng. Bởi
màu đỏ của tấm vải hàm nghĩa sự thiêng
lỉêng và bí ẩn, hàm chứa cái huyền bí của
sự sống ẩn giấu nơi đáy sâu của đại dương
nguyên thủy, hòa hợp với màu đen của đất,
tạo thành biểu tượng cặp đôi Đất - Nước
trong dòng mạch truyền thống. Đồng thời
màu đỏ của tấm vải ấy còn là màu của may
mắn, màu của sự bình an. Đây là một trong
những ý nghĩa tiêu biểu, giá trị bậc nhất
trong tương tác và trải nghiệm giữa con
người với môi trường sinh thái biển. Có lẽ
vì vậy, người phát hiện Cá Ông dạt vào bờ
trước tiên, dân biển gọi là “được Ông”, và
sẽ được coi là con cả của Ông tức “trưởng
nam”, có nghĩa vụ chăm lo thờ phụng Ông
trong ba năm để dân làng được phù hộ
nhiều may mắn, thuyền đầy tôm cá và bình
an. Đây là trải nghiệm mang tính chất thuận
tự nhiên mà từ xưa, con người luôn tìm
kiếm và theo đuổi.
Hình 1. Lăng Ông Nam Hải, với bộ xương
Cá Ông dài 13m, tại Khu Di tích lịch sử
Quốc gia Hòn Đá Bạc (xã Khánh Bình
Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau)
[Ảnh: Tác giả]
Việc tìm đất lập mộ là một ứng xử, trải
nghiệm đặc biệt, với sự cẩn thận, kỹ lưỡng,
vì với tâm linh của cư dân biển đảo, đó
không chỉ là sự trân trọng, tôn kính dành
cho Cá Ông mà còn ảnh hưởng đến sự phát
NGUYỄN ĐĂNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
21
đạt, hưng thịnh của làng vạn về sau. Do đó,
gần như thống nhất ở các tỉnh có biển của
Nam Bộ, đó là các mộ, lăng đều ở những
nơi có đị