Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai trong khi đề cao Truyện Kiều là tác phẩm ưu tú
nhất, cũng viết: “Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du cố nhiên mới chỉ biểu hiện bằng
những phương thức yếu ớt theo đạo lý chữ nhân của đạo Khổng hoặc theo tinh thần
hiếu sinh của đạo Phật, chưa phải là chiến đấu tính cho nhân đạo, cho con người.
Trong Truyện Kiều, tính chiến đấu chưa phải là tích cực và đúng với lập trường; mâu
thuẫn chỉ giải quyết theo tinh thần thỏa hiệp với chế độ, tinh thần khuất phục với
mệnh trời” (Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều).
7 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp một cách nhìn về Nguyễn Du và 'Truyện Kiều', để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Góp một cách nhìn về Nguyễn Du và 'Truyện Kiều'
Trong hội thảo khoa học về Nguyễn Du tháng 12/2005 vừa qua, nhiều ý kiến
khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, Nguyễn Du và Truyện Kiều mới được tôn
vinh xứng đáng với giá trị của nó. Ý kiến đó có hoàn toàn chính xác?
Nguyễn Du là một thiên tài. Thiên tài được hình thành không chỉ từ học vấn, từ
bối cảnh xã hội cụ thể nào mà còn có yếu tố từ vũ trụ, từ một khoảnh khắc nào đó mà
thôi... Truyện Kiều là một kiệt tác. Là kiệt tác, nó luôn ẩn chứa những thông tin vĩnh
cửu. Không thể lấy thước đo của một thời mà đo chiều kích của thiên tài và kiệt tác.
Nhưng mỗi thời, đánh giá và khai thác di sản quá khứ một cách khác nhau, âu cũng là
lẽ thường tình. Với những kiệt tác, với những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử, theo tôi,
không nên tìm những “nhược điểm” theo cách nhìn của mình mà nên đi hết tầm xa,
tầm rộng của họ.
1. Truyện Kiều là truyện tình năm Gia Tĩnh triều Minh hay truyện thế sự,
truyện về thân phận con người của muôn đời?
Tôi được nghe cha tôi giảng Kiều từ nhỏ. Ấy là vì mẹ tôi mê Kiều đến nỗi, dù
đã thuộc lòng, đêm nào cũng bắt cha tôi giảng giải kỹ từng đoạn. Có lần, hai người
tranh luận sôi nổi quá, cha tôi quờ tay làm rơi cái đèn chai. Mảnh thủy tinh vỡ còn để
sẹo ở tôi đến bây giờ. Thế nhưng ngay cả khi học xong đại học, tôi không bao giờ chú
ý thấu đáo cái đoạn mở đầu của Truyện Kiều. Đến bây giờ, tôi thấy không hiểu cái
đoạn “đơn giản” như một lời dẫn chuyện ấy thì không thể hiểu hếtTruyện Kiều và
Nguyễn Du.
Đoạn mở đầu ấy là:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
“Trăm năm” là thời gian, là khoảng sống của một đời người và cũng là từng
trăm năm kiếp người một. “Cõi người ta” là không gian. Tóm lại, câu ấy gồm cả vũ
trụ, là sự vĩnh cửu trong cõi người. Chữ “Tài” là tài năng, là cái vốn có, là khát vọng
của con người cá nhân. “Mệnh” là điều kiện khách quan, mà khách quan thì có đáp
ứng, có hạn chế. Đối với bậc tài hoa thì sự hạn chế ấy là phũ phàng vì nó vượt qua tầm
thời đại, nó là sự bù lại “lộc trời” đã ban cho quá lớn. Trải qua một cuộc bể dâu -
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng là thế sự, là toàn bộ chuyện đời. Truyện
Kiều do đó không phải là chuyện tình, mà là một “tiểu thuyết” luận đề. Vấn đề ở đây
là quan hệ con người cá nhân với xã hội. Và cách giải quyết của Nguyễn Du là Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài. Có người cho rằng, để giải quyết nỗi khổ của con người,
phải có một cuộc cách mạng triệt để. Nhưng thực tế, nỗi khổ và oan khuất của con
người có bao giờ hết? Trong trăm năm cõi người, lấy chữ “tâm” để ứng xử, không chỉ
là ảnh hưởng của đạo Phật mà là một triết lý sâu xa, là tinh hoa những tư tưởng mà
Nguyễn Du tiếp thu được cộng với sự trải nghiệm của ông trong quãng đời ngắn ngủi
của mình chứng kiến sự sụp đổ của nhiều triều đại, sự tạm bợ của nhiều điều, kể cả
chính cả bản thân sự sống. Có người nói Nguyễn Du ảnh hưởng của giáo lý này, giáo
lý khác. Không, ông đã đứng được ở bờ vĩnh cửu, đã không chỉ nói quan hệ xã hội của
con người mà còn nói tới quan hệ của cõi sống với những cõi khác huyền diệu.
2. Vì sao Nguyễn Du lại chọn Thúy Kiều, một phụ nữ tài sắc thuộc tầng
lớp trung lưu, làm nhân vật chính?
Không lấy nhân vật chính là người lao động bình thường không phải là hạn chế
của Nguyễn Du theo quan điểm giai cấp mà là chỉ với sự lựa chọn ấy, Nguyễn Du mới
có thể dẫn Thúy Kiều và chúng ta tới mọi cảnh ngộ của đời sống, mọi cung bậc của
tình cảm. Theo tôi, đó là một lựa chọn thiên tài.
3. Vì sao Nguyễn Du lại lựa chọn một câu chuyện Trung Hoa?
Đây lại là một lựa chọn thiên tài nữa. Nó làm cho tác phẩm mang tính phổ quát.
Thứ nữa, trong các xã hội, nhất là trong xã hội phong kiến, có những án văn tự dẫn
đến việc đốt sách và mang họa tru di. Nguyễn Du là người biết rất rõ điều đó. Có một
câu về Từ Hải thôi mà Tự Đức nói, nếu Nguyễn Du còn sống thì phải nọc ra đánh.
Vậy viết một chuyện cụ thể Việt Nam, liên quan đến một dòng họ cầm quyền nào đó
với sức tố cáo lớn như vậy, liệu Truyện Kiều có còn đến ngày nay?
Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như? - Đó là câu thơ
trong bài Độc Tiểu Thanh ký. Nàng Tiểu Thanh là người tài sắc, sống vào thời nhà
Minh, bị vợ cả ghen giam lỏng trên núi đến buồn mà chết. Nguyễn Du đọc được một
bài thơ còn sót lại sau khi bị đốt của nàng, cảm kích mà làm bài này. Bài thơ được ông
Vũ Tam Tập dịch là:
Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Tôi không dám không hiểu như các cụ túc nho đã dịch và lâu nay mọi người
vẫn hiểu. Nhưng tôi cũng có một băn khoăn. Vì sao lại là ba trăm năm? Có thuyết cho
rằng Tiểu Thanh sống cách Nguyễn Du ba trăm năm. Nhưng các cụ cũng nói rõ, đấy
chỉ là giả thuyết, còn ý của Nguyễn Du thật như thế nào thì cũng chưa biết. “Tam bách
dư niên” phải chăng là một con số ước lệ, chỉ một vòng triều đại, một cuộc biến thiên
lớn của lịch sử? Quả là Nguyễn Du có hay nói về già bệnh, về cổ mạch hàn phong
cộng nhất nhân nhưng ngay cả đến lúc chết, ông cũng chỉ nói “Được” rất thanh thản.
Ông có cần, có mong muốn người đời sau khóc thương mình hay không? Nếu nghi
vấn ấy có lý thì câu thơ sẽ phải được hiểu khác, sẽ mang một trường nghĩa rộng hơn.
Giả sử, Nguyễn Du đặt câu hỏi, ba trăm năm sau còn người ở vào chỗ phong vận kỳ
oan như Nguyễn Du mà đồng bệnh tương liên?
Và cuối cùng, tôi nghĩ rằng, tình cảm chính của chúng ta hôm nay và hậu thế
cũng không phải là khóc thương ông, mà muôn vàn khâm phục, biết ơn những di sản
tinh thần vô giá mà ông đã sáng tạo nên. Dẫu trong Truyện Kiều có bao nhiêu oan
khuất thì sáng lên nhất vẫn là mối tình nồng thắm, đẹp đẽ của Kim - Kiều trong những
ngày xuân. Nó làm sáng lên ước vọng yêu đời của không biết bao nhiêu thế hệ, nó
hướng con người tới những vì sao của tình yêu và hạnh phúc.
Đánh giá về Truyện Kiều theo dòng lịch sử
Trong lời tựa của bản Kiều đem in năm 1820, Tiên Phong Mộng Liên Đường
chủ nhân viết: “Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng
tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh như hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải con mắt
trông cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”.
Vua quan thời Minh Mệnh, Tự Đức đều rất mê Kiều. Tự Đức muốn nọc
Nguyễn Du ra đánh một trăm roi vì câu Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang
nào biết trên đầu có ai. Nhưng cũng Tự Đức: Mê gì? Mê đánh tổ tôm, Mê ngựa Hậu
bổ, mê Nôm Thúy Kiều.
Tuy nhiên, có một luồng khác coi Truyện Kiều là một dâm thư: Đàn ông chớ
kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
Phạm Quỳnh trong bài diễn văn đọc tại Hội Khai trí tiến đức năm 1924 tại Hà
Nội: “Truyện Kiềukhông chỉ đối với văn hóa nước nhà mà đối với văn học thế giới
cũng chiếm được một địa vị cao quý... Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn,
nước ta còn...”.
Để chống lại quan điểm này, quan điểm mà các nhà cách mạng cho nhằm để
“ru ngủ” thanh niên, chí sĩ Ngô Đức Kế trong bài Luận về chánh học cùng tà
thuyết, Quốc văn, Kim Vân Kiều, Nguyễn Du cùng năm đó viết trên tạp chí Hữu
Thanh: “Văn tuy hay mà truyện là truyện phong tình, thì có vẻ ai dâm sầu oán, đạo
dục tăng bi... Các gã thiếu niên chí khí chưa định, tình dục đang nồng, xem truyện thì
mê, rồi sinh cái tư tưởng trộm ngọc cắp hương, khêu hoa ghẹo nguyệt, say đắm trong
trời tình bể ái mà mềm nhũn cái gan lòng sắt đá, bỏ mất cái chí nguyện cao xa...”.
Sau cách mạng, chỉ có bài của Ngô Đức Kế chứ không có bài của Phạm Quỳnh
được dạy trong nhà trường. Một giáo trình đại học còn viết: Âm mưu của Phạm
Quỳnh là ở chỗ này: “Truyện Kiều còn... nước ta còn”, như thế thì yêu nước chỉ lao
đầu vào nghiên cứu Truyện Kiều chứ cần gì phải đấu tranh chống Pháp!
Bên cạnh sự ngợi khen và tôn vinh, học tập và nghiên cứu nhiều nhất từ trước
tới nay, nửa thế kỷ qua vẫn còn nhiều lời phê phán đối với Truyện Kiều và tác giả của
nó.
Trong bài Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoài
Thanh viết: “Nguyễn Du đã cảm thông được một phần nỗi khổ chung của con người
bị chà đạp dưới một chế độ ngày càng thêm mục nát. Cố nhiên cũng chỉ cảm thông
được một phần thôi. Rốt cuộc, Nguyễn Du vẫn là người của giai cấp phong kiến, của
chế độ phong kiến”.
Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai trong khi đề cao Truyện Kiều là tác phẩm ưu tú
nhất, cũng viết: “Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du cố nhiên mới chỉ biểu hiện bằng
những phương thức yếu ớt theo đạo lý chữ nhân của đạo Khổng hoặc theo tinh thần
hiếu sinh của đạo Phật, chưa phải là chiến đấu tính cho nhân đạo, cho con người...
Trong Truyện Kiều, tính chiến đấu chưa phải là tích cực và đúng với lập trường; mâu
thuẫn chỉ giải quyết theo tinh thần thỏa hiệp với chế độ, tinh thần khuất phục với
mệnh trời” (Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều).