TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL 
 ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY 
 Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020) 
Email: 
[email protected] ; Website:  
24 
HAI TIẾP CẬN KHÁC NHAU VỀ BÀI TOÁN MỞ 
Two different approaches to the open problem 
PGS.TS. Lê Văn Tiến(1), Phạm Thị Hoài Thương(2) 
(1)Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương TP.HCM 
(2)Trường THCS-THPT Trần Cao Vân, TP.HCM 
TÓM TẮT 
Bài báo trình bày hai cách tiếp cận cho phép khái quát hóa các xu hướng nghiên cứu chủ yếu về bài toán 
mở ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam và làm rõ các đặc trưng cơ bản của đối tượng này. 
Bài báo cũng chỉ ra một số khó khăn, bất cập thể hiện trong các cách tiếp cận và một phần thực trạng 
nghiên cứu bài toán mở ở Việt Nam. 
Từ khóa: bài toán mở, bài toán kết thúc mở, phân loại bài toán mở 
ABSTRACT 
The paper presents two approaches that allow generalization of major research trends on open problems 
in many countries of the world as well as in Vietnam and clarify the essential characteristics of this 
object. Additionally, the article also highlights some of the difficulties and inadequacies expressed in 
approaches and part of the current open problem research situation in Vietnam. 
Keywords: open problem, open-ended problem, classification of open problems 
1. Đặt vấn đề 
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ 
ra tầm quan trọng của bài toán mở (BTM) 
đối với dạy học toán từ bậc tiểu học tới đại 
học. Hai trích dẫn sau thể hiện như những 
kết luận sống động về lợi ích của BTM: 
“Ai gieo bài toán mở thì gặt hái niềm 
vui ở trường” (Mathieu, 2010). 
“Bài toán kết thúc mở: Một phương pháp 
để đổi mới giáo dục” (Pehkonen, 1999). 
Bài toán kết thúc mở là một loại BTM. 
Ở Việt Nam, có không ít tác giả 
nghiên cứu về bài toán mở (BTM). Tuy 
nhiên, mỗi tác giả đề cập BTM dưới một 
góc nhìn, một quan niệm chuyên biệt nào 
đó. Thậm chí có tác giả sử dụng chưa phù 
hợp các khái niệm liên quan. 
Từ nhiều công trình nghiên cứu BTM 
của nước ngoài, bằng phương pháp phân 
loại và hệ thống hóa lí thuyết, chúng tôi 
trình bày một cách tổng quan và hệ thống 
hơn về khái niệm BTM, cũng như các vấn 
đề cơ bản gắn với BTM. Kết quả này sẽ 
cho phép nhìn rõ hơn các quan niệm và xu 
hướng nghiên cứu BTM ở Việt Nam. 
2. Sơ lược lịch sử bài toán mở 
Theo Pehkonen (1997, tr.7): 
 Phương pháp sử dụng các bài toán kết 
thúc mở (open-ended problem)1 trong lớp 
học để thúc đẩy tranh luận toán học – một 
phương pháp được gọi là "tiếp cận mở", đã 
phát triển ở Nhật Bản vào những năm 
Email: 
[email protected] 
LÊ VĂN TIẾN - PHẠM THỊ HOÀI THƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
25 
1970, thể hiện qua công trình của Shimada 
(1977). Gần như cùng lúc ở Anh, việc sử 
dụng các cuộc điều tra, khảo sát - một loại 
BTM, đã trở nên phổ biến trong dạy học 
toán và sau đó được phổ biến rộng rãi hơn 
bởi Cockcroft (1982). 
Vào những năm 1980, ý tưởng sử 
dụng một số dạng BTM trong lớp học lan 
rộng khắp thế giới và việc nghiên cứu về 
khả năng vận dụng nó xuất hiện ở nhiều 
quốc gia, thể hiện qua các công trình như 
Nohda (1988), Pehkonen (1989, 1995), 
Silver & Mamona (1989), Williams (1989), 
Mason (1991), Nohda (1991, 1995), Stacey 
(1991, 1995), Zimmermann (1991), Clarke 
& Sullivan (1992), Silver (1993, 1995). Ở 
một số quốc gia, người ta sử dụng một tên 
khác cho các BTM; chẳng hạn ở Hà Lan, 
gọi là "toán học thực tế" (Treffers, 1991). 
Tư tưởng sử dụng các BTM trong 
dạy học toán ở trường phổ thông đã được 
đưa vào trong chương trình ở một số nước, 
dưới hình thức này hay hình thức khác. Ví 
dụ, trong chương trình toán của trường 
Polyvalente ở Hamburg (Đức), khoảng 1/5 
thời gian giảng dạy được để trống nhằm 
khuyến khích sử dụng các hoạt động toán 
học dưới dạng BTM (Anon, 1990). Ở 
California (Mỹ), chương trình yêu cầu: 
ngoài các bài kiểm tra trắc nghiệm thông 
thường, nên sử dụng các BTM trong đánh 
giá (Anon, 1991). Ở Úc, một số BTM (ví 
dụ, các dự án khảo sát) đã được sử dụng 
trong đánh giá cuối kì kể từ cuối những 
năm 1980 (Stacey, 1995). 
Trong những năm cuối thế kỉ 19, đã 
có những bài viết phản biện về việc sử 
dụng bài toán kết thúc mở. Chẳng hạn, một 
nhà toán học Mỹ đã viết một bài báo hoài 
nghi về việc học toán với các BTM hoặc về 
loại BTM được sử dụng trong các trường 
học ở California (Wu, 1994). Trong một 
cuộc họp, Paul Blanc đã chỉ trích gay gắt 
việc thực hiện các cuộc khảo sát tại các 
trường học ở Anh (Blanc & Sutherland, 
1996). Ông đổ lỗi cho giáo viên đã phát 
triển một kiểu giám sát cơ học mới để giải 
quyết các cuộc điều tra, khảo sát. 
Hiện nay, yêu cầu sử dụng BTM đã 
hiện diện tường minh hoặc ngầm ẩn trong 
chương trình phổ thông của nhiều nước. 
Chẳng hạn, sau khi nghiên cứu chương 
trình từ tiểu học tới trung học phổ thông 
hiện hành của Cộng hòa Pháp, Vandebrouc 
et al (2015, tr.3) khẳng định dù thuật ngữ 
BTM không xuất hiện tường minh trong 
chương trình, nhưng tất cả các chỉ dẫn có 
trong chương trình liên quan tới việc giải 
toán đều tương thích với loại bài toán này. 
Hơn thế, trên trang https://eduscol. 
education.fr/ của Bộ Giáo dục quốc gia và 
Thanh niên Pháp có rất nhiều thông tin, 
thậm chí là tài nguyên về các BTM. 
3. Hai cách tiếp cận bài toán mở 
Theo Vandebrouck et al (2014): 
“Trong khoa học toán học, thuật ngữ bài 
toán mở thường dùng để chỉ các bài toán 
mà trong suốt một thời gian dài vẫn chưa 
có lời giải, như định lý cuối cùng của 
Fermat”2 (tr.7). Còn trong phạm vi giáo 
dục, “Thuật ngữ bài toán mở có nguồn gốc 
từ Nhật Bản từ những năm 1970, trong các 
công trình của Shimada (1977), Becker 
(1997) với mục tiêu cải cách dạy học toán 
dựa trên các tiếp cận mở trong thực tế dạy 
học. Tuy nhiên, trong cộng đồng các nhà 
nghiên cứu giáo dục toán, không có một 
quan niệm chung về khái niệm bài toán 
mở” (tr.8). 
Nói cách khác, trong phạm vi dạy học 
toán, không thể đưa ra một định nghĩa và 
cách xếp loại thống nhất chung cho tất cả 
các quan niệm về BTM. 
Tuy nhiên, trong phạm vi bài báo này, 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 
26 
chúng tôi sẽ tiến hành phân tích và tổng 
hợp một số tài liệu, công trình đã biết về 
BTM để sắp xếp các quan niệm khác nhau 
về BTM vào hai loại, mà chúng tôi gọi là 
hai cách tiếp cận: tiếp cận nội dung (dựa 
vào đặc trưng của nội dung bài toán) và 
tiếp cận mục tiêu (dựa vào mục tiêu sử 
dụng bài toán). 
Cần lưu ý rằng, hai cách tiếp cận này 
không độc lập với nhau; một dạng BTM 
thuộc cách tiếp cận này có thể là hệ quả 
của một dạng khác thuộc cách tiếp cận kia. 
Đơn giản là chúng được phân định dựa trên 
hai hệ tiêu chí khác nhau, nhưng phụ thuộc 
lẫn nhau. 
3.1. Quan niệm bài toán mở theo tiếp 
cận nội dung 
3.1.1. Khái niệm bài toán đóng và bài 
toán mở 
Cách tiếp cận này xuất phát từ hai khái 
niệm cơ sở: khái niệm bài toán đóng 
(BTĐ) và khái niệm BTM. 
Chẳng hạn, Pehkonen (1997) định 
nghĩa: “Khái niệm bài toán mở có thể được 
giải thích như sau: chúng ta hãy bắt đầu 
ngược lại và nói rằng một bài toán là bài 
toán đóng nếu tình trạng khởi đầu (starting 
situation) và tình trạng mục tiêu (goal 
situation) là đóng, nghĩa là được xác định 
chính xác (exactly explained). Nếu tình 
trạng khởi đầu và hoặc tình trạng mục tiêu 
là mở, tức là không đóng, ta có một bài 
toán mở” (tr.8). 
Đồng quan niệm với Pehkonen (1997), 
Kosyvas (2010) mô tả chi tiết hơn: 
“Khái niệm bài toán mở có thể được 
giải thích như sau: một bài toán là bài toán 
đóng nếu tình trạng khởi đầu (situation 
initiale) và tình trạng kết thúc (situation 
finale) được xác định rõ. Một bài toán 
được xác định rõ ràng nếu các dữ liệu ban 
đầu, các ràng buộc và mục tiêu được nêu 
một cách rõ ràng và đủ để giải quyết vấn 
đề (de façon explicite et opérationnelle)3. 
Từ đề bài, người giải có được tất cả các 
yếu tố và tiêu chí cụ thể và rõ ràng để xem 
xét tiến trình giải, mà không phải tự xác 
định chúng (Tardif, 1997; Jonassen, 1997). 
Nếu tình trạng khởi đầu hoặc tình trạng 
cuối cùng là mở, chúng ta có một bài toán 
mở” (tr.46); 
“Trong các bài toán mở, câu hỏi được 
trình bày rõ ràng chỉ ở cấp độ ngữ pháp – 
biên tập. Ngược lại, ở cấp độ ngữ nghĩa lại 
có sự nhập nhằng (ambiguïté)4 trong câu 
hỏi” (tr.47). 
Cái khác biệt giữa hai tác giả là mặt 
thuật ngữ: trong khi Kosyvas dùng từ 
finale (thiên về nghĩa: cuối cùng), thì 
Pehkonen dùng từ goal (mục tiêu). 
Dựa vào Pehkonen (1997) và Kosyvas 
(2010) có thể hiểu: 
“Tình trạng khởi đầu” bao hàm những 
dữ liệu và những ràng buộc ban đầu đã có 
của bài toán. 
Tình trạng khởi đầu là đóng nếu dữ 
liệu và ràng buộc ban đầu được xác định rõ 
ràng, cụ thể và đầy đủ. Đầy đủ theo nghĩa 
người giải đủ thông tin để giải quyết bài 
toán, mà không cần điều chỉnh hay bổ sung 
thông tin vào các dữ liệu hay ràng buộc 
ban đầu ấy. 
Tình trạng khởi đầu là mở (nghĩa là 
không đóng) nếu dữ liệu và ràng buộc ban 
đầu chưa được xác định rõ ràng, cụ thể 
hoặc chưa đủ để giải quyết bài toán. Để 
giải được bài toán, người giải cần điều 
chỉnh hoặc bổ sung thông tin vào dữ liệu 
và ràng buộc ban đầu. 
“Tình trạng mục tiêu” (hay tình trạng 
kết thúc) bao hàm: yêu cầu cần giải quyết 
hay câu hỏi cần trả lời, phương pháp giải 
bài toán, kết quả giải dựa vào những dữ 
liệu và ràng buộc ban đầu ấy. 
LÊ VĂN TIẾN - PHẠM THỊ HOÀI THƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
27 
Tuy nhiên, còn có những khó khăn liên 
quan tới nghĩa của khái niệm “tình trạng 
mục tiêu”. Cụ thể, trong các công trình mà 
chúng tôi tham khảo cho bài báo này (kể cả 
Pehkonen, 1997 và Kosyvas, 2010), không 
có công trình nào cho phép hiểu một cách 
chính xác: 
Thế nào là “tình trạng mục tiêu”? 
Tình trạng mục tiêu còn bao hàm 
những gì khác (ngoài yêu cầu cần giải 
quyết, câu hỏi cần trả lời, giải pháp cần 
thực hiện, kết quả đạt được)? 
Thế nào là “tình trạng mục tiêu mở” 
(nghĩa là không đóng)? 
3.1.2. Phân loại bài toán mở theo tiếp 
cận nội dung 
Ngay sau khi cho định nghĩa BTM như 
trong mục 2.1.1 ở trên, Pehkonen (1997) 
giải thích: “Theo định nghĩa này, chúng ta 
có ba loại bài toán mở (open problems), mà 
một trong số đó là bài toán kết thúc mở 
(open-ended problems)” (tr.8). 
Nói cách khác, Pehkonen phân biệt 3 
loại BTM tương ứng với ba cặp quan hệ 
giữa tình trạng khởi đầu (K) và tình trạng 
mục tiêu (M), đó là: (K đóng, M mở); (K 
mở, M đóng); (K mở, M mở). 
Đặc biệt hơn, Pehkonen (1997, tr.8) 
cho rằng, quan niệm BTM như trong mục 
3.1.1 bao hàm các loại vấn đề đã được đưa 
ra bàn cãi tại Hội thảo về tâm lí học trong 
giáo dục toán học, diễn ra vào tháng 
7/1993 ở Tsukuba (Nhật Bản) khi tranh 
luận “thế nào là bài toán mở”. Đó là các 
vấn đề thể hiện dưới các tên gọi khác nhau 
như khảo sát, điều tra (investigations), lập 
bài toán (problem posing), tình huống 
thực tế (real-life situations), dự án 
(projects), chuỗi bài toán (problem fields, 
or problem sequences), bài toán không có 
câu hỏi (problems without question), Biến 
thể bài toán (problem variations). Nói 
cách khác, tất cả các vấn đề như vậy đều 
là BTM. 
Pehkonen (1997, tr.9) đã tóm tắt quan 
điểm trên qua bảng dưới đây, mà ông gọi là 
“Phân loại các bài toán theo tình trạng 
khởi đầu và tình trạng mục tiêu”: 
Tình trạng mục tiêu (M) 
Tình trạng khởi đầu (K) 
Đóng 
(Được xác định 
chính xác) 
Mở 
Đóng 
(Được xác định chính xác) 
- Bài toán đóng 
- Bài toán kết thúc mở 
- Tình huống thực tế 
- Khảo sát điều tra 
- Chuỗi bài toán 
- Biến thể bài toán 
Mở 
- Tình huống thực tế 
- Biến thể bài toán 
- Tình huống thực tế 
- Biến thể bài toán 
- Dự án 
- Lập BT (Problem Posing) 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 
28 
Nhận xét: 
 Khái niệm BTM của Pehkonen có 
nghĩa rất rộng, không bó hẹp trong phạm vi 
trường học, với nhiều kiểu vấn đề khác 
nhau. Tuy nhiên, phạm vi bài báo này 
không cho phép đi sâu nghiên cứu đặc 
trưng của tất cả các loại vấn đề này. Chúng 
tôi chỉ tập trung vào các khái niệm: BTĐ, 
BTM và bài toán kết thúc mở. 
 Theo bảng phân loại trên của 
Pehkonen, bài toán kết thúc mở thuộc loại 
(K đóng, M mở). Tuy nhiên, theo chúng 
tôi, bài toán kết thúc mở bao hàm cả 
trường hợp (K mở, M mở)5. Nhận định này 
cũng phù hợp cách phân loại BTM theo 
đặc trưng của K và M cùng với quan niệm 
của một số tác giả khác, chẳng hạn: 
“Các bài toán kết thúc mở thường 
được coi là các nhiệm vụ có thể có nhiều 
hơn một giải pháp đúng và chúng cung cấp 
cho sinh viên nhiều cách tiếp cận bài toán” 
(Chan Chun Ming Eric, 2005, tr.2). 
 Một câu hỏi khác cần đặt ra là: Liệu 
có BTM dạng (K mở, M đóng) không? Vì 
thường ta có thể suy luận rằng, K mở thì tất 
yếu M sẽ mở! 
Theo chúng tôi, câu trả lời là “có”. Ví 
dụ, xét bài toán sau, được Bùi Huy Ngọc 
(2004, tr.24) xem là BTM về phía giả thiết 
tức K mở: 
“Đầu năm học, bố mẹ cho em mua 
toàn bộ sách giáo khoa (SGK) lớp 6. Tính 
tổng số tiền bố mẹ đã cho em để mua số 
SGK đó”. 
Rõ ràng K mở, vì giả thiết bài toán còn 
ở dạng khái quát, chưa cụ thể. Để giải, học 
sinh phải cụ thể hóa giả thiết bằng cách tìm 
hiểu để bổ sung thông tin (bộ sách gồm 
những cuốn nào? giá tiền mỗi cuốn). 
Nhưng M của bài toán này có đặc trưng 
“đóng”, vì yêu cầu hoàn toàn rõ ràng, 
chính xác: “tính tổng số tiền. để mua số 
SGK đó”. 
3.2. Quan niệm bài toán mở theo tiếp 
cận mục tiêu 
Trong quan niệm này, chúng tôi lại ghi 
nhận hai cách tiếp cận mục tiêu khác nhau: 
 Quan niệm theo mục tiêu phát triển ở 
người học thái độ và năng lực nghiên cứu 
(chúng tôi gọi tắt là “mục tiêu phát triển 
năng lực nghiên cứu”). 
 Quan niệm theo mục tiêu phát triển ở 
người học năng lực tạo lập các bài toán từ 
một “tình huống khung” ban đầu (chúng tôi 
gọi tắt là “mục tiêu lập bài toán”). 
3.2.1. Quan niệm bài toán mở theo tiếp 
cận mục tiêu phát triển năng lực nghiên cứu 
Bài toán mở (BTM) được hiểu là bài 
toán nhắm tới phát triển ở người học thái 
độ và năng lực nghiên cứu. Đó chính là 
năng lực có tính phương pháp như đặt câu 
hỏi, thực hiện các thử nghiệm, đưa ra các 
giả thuyết, phỏng đoán và kiểm chứng 
chúng, triển khai thực hiện kế hoạch của cá 
nhân, đánh giá hiệu quả của giải pháp, kết 
quả lí giải về giải pháp của mình hoặc 
của người khác.v.v. 
Sau đây là một số minh chứng cho 
nhận định trên của chúng tôi: 
“Bài toán mở là bài toán mà việc giải 
quyết không nhằm mục tiêu đưa vào một 
khái niệm mới hoặc chỉ để củng cố hay áp 
dụng các kiến thức đã học, mà là để phát 
triển ở học sinh sở thích và năng lực 
nghiên cứu” (Stéphanie, 2010, tr.11). 
“Bài toán mở cũng được gọi là bài 
toán để khám phá (problèmes pour 
chercher). []. Nó đặt học sinh vào tình 
huống tương tự như các nhà toán học khi 
gặp những vấn đề chưa biết cách giải 
quyết. Bài toán mở cho phép phát triển 
những năng lực về mặt phương pháp [] 
như thử nghiệm, đưa ra các giả thuyết, 
các phỏng đoán và kiểm chứng chúng, 
LÊ VĂN TIẾN - PHẠM THỊ HOÀI THƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
29 
triển khai thực hiện kế hoạch của cá nhân; 
đánh giá hiệu quả, lí giải về giải pháp của 
mình hoặc của học sinh khác.v.v. []. 
Bài toán mở cho phép điều chỉnh thái độ 
của học sinh với toán học. Quả thực, 
những bài toán này buộc học sinh phải 
khám phá hơn là tìm nhanh một lời giải” 
(Mathieu, 2010, tr.5). 
“Mục tiêu của bài toán mở là đặt học 
sinh vào vị trí của nhà nghiên cứu trong 
toán học. Nghĩa là đặt học sinh vào tình 
huống học tập dẫn đến việc thực hiện các 
phép thử, phỏng đoán, kiểm chứng, chứng 
minh” (Arsac et Mante, 2007, trích theo 
Vandebrouck et al, 2014, tr.5). 
Charnay (1992) đề xuất một phân loại, 
cùng các giải thích sau đây theo mục tiêu 
học tập để phân biệt BTM với các loại BT 
khác: 
 “Các bài toán nhằm dẫn học sinh vào 
việc kiến tạo kiến thức mới (thường được 
gọi là “tình huống - vấn đề”); 
Các bài toán cho phép học sinh sử 
dụng kiến thức đã học (thường được gọi là 
“bài toán tái đầu tư”); 
Các bài toán cho phép học sinh mở 
rộng phạm vi sử dụng một khái niệm đã 
học (đôi khi được gọi là “bài toán chuyển 
giao”, nhưng thuật ngữ này vẫn còn mơ 
hồ); 
Các bài toán phức tạp hơn trong đó 
học sinh phải sử dụng đồng thời nhiều loại 
kiến thức (đôi khi được gọi là “bài toán 
tích hợp hoặc tổng hợp”); 
Các bài toán có mục tiêu cho phép 
giáo viên và học sinh nắm bắt được cách 
thức nắm vững kiến thức (“bài toán đánh 
giá”); 
Các bài toán nhằm đặt học sinh vào 
tình huống nghiên cứu và do đó để phát 
triển các năng lực có tính phương pháp hơn 
(“bài toán mở”). 
[] Phân loại này làm rõ đặc trưng cơ 
bản của bài toán mở. Tất cả các loại bài 
toán khác đều tập trung vào việc tiếp thu và 
nắm vững các khái niệm toán học. Riêng 
bài toán mở, chủ yếu nhằm phát triển thái 
độ nghiên cứu và năng lực có tính phương 
pháp như: thực hiện và quản lý các phép 
thử, đưa ra các giả thuyết, đề xuất các giải 
pháp, kiểm tra tính hợp thức của chúng, lập 
luận...”. 
Nhận xét: 
Theo quan niệm BTM theo tiếp cận 
mục tiêu phát triển năng lực nghiên cứu 
như trên, tất cả các bài toán cho phép đạt 
được mục tiêu phát triển ở học sinh các 
thành tố của năng lực nghiên cứu thì đều là 
BTM. Tuy nhiên, điều này lại dẫn tới một 
số khó khăn, chẳng hạn: 
Khó khăn phân biệt các loại bài toán 
như phân loại ở trên của Charnay. Ví dụ, 
bài toán dạng “tình huống - vấn đề” hay bài 
toán chuyển giao vẫn có thể cho phép phát 
triển ở HS một số thành tố của năng lực 
nghiên cứu! 
Khó khăn thiết kế bài toán cho phép 
đạt được mục tiêu đó. Nói cách khác, bài 
toán đó cần có đặc trưng gì (hiểu theo khía 
cạnh nội dung: giả thiết, kết luận phải 
như thế nào?). Điều này buộc phải xác định 
bài toán theo tiếp cận nội dung. 
Có thể xuất phát từ khó khăn trên mà 
nhóm nghiên cứu của Arsac et Mante, 
thuộc Viện nghiên cứu về dạy học toán 
(IREM) ở Lyon, Pháp đã đề nghị các tiêu 
chí sau về BTM (dù rằng, nhóm này quan 
niệm BTM theo tiếp cận mục tiêu nghiên 
cứu): 
“Một bài toán mở là bài toán có các 
đặc điểm sau: 
Đề bài ngắn. 
Đề bài không có gợi ý về phương 
pháp, lời giải hay kết quả (không có câu 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 
30 
hỏi trung gian hoặc câu hỏi kiểu “chứng 
minh rằng”). Trong mọi trường hợp, lời 
giải này không phải là kết quả của việc áp 
dụng ngay tức thì các kiến thức đã học. 
Bài toán thuộc lĩnh vực nhận thức 
quen thuộc để đảm bảo cho học sinh có thể 
hiểu được tình huống và thực hiện được 
các phép thử, các phỏng đoán, các giải 
pháp giải, các phản ví dụ” (Arsac et Mante, 
2007, tr.20). 
Như vậy, để đạt được mục tiêu phát 
triển năng lực nghiên cứu, Arsac et Mante 
đã đặt ra đặc trưng về nội dung cho BTM 
(tiếp cận nội dung). 
Đây là một minh chứng cho thấy, 
BTM theo tiếp cận nội dung và BTM theo 
tiếp cận mục tiêu không hoàn toàn độc lập, 
mà phụ thuộc lẫn nhau. 
3.2.2. Quan niệm bài toán mở theo tiếp 
cận mục tiêu “lập bài toán” 
Vì khó khăn về nguồn tài liệu nên 
chúng tôi chỉ có thể mô tả sơ lược như 
dưới đây mà không thể đi sâu hơn vào cách 
tiếp cận này. 
Kosyvas (2010) mô tả quan niệm 
BTM theo mục tiêu “lập bài toán” 
(Problem Posing) như sau: 
“Một quan niệm khắt khe hơn về bài 
toán mở được gọi là “lập bài toán” (Silver, 
1994; Crespo, 2003; Cickyham, 2004). Lập 
bài toán hướng học sinh vào một quy trình 
mở hơn, đó là quy trình nghiên cứu và tạo 
ra các bài toán trên cơ sở "tình huống 
khung". Tình huống khung là một phạm vi 
tham khảo ban đầu, từ đó học sinh sẽ được 
khuyến khích dùng trí tưởng tượng của 
mình để đặt ra các câu hỏi, nêu lên các vấn 
đề có giải pháp toán học. Trong lập bài 
toán, học sinh sẽ làm theo động cơ của 
riêng mình (Brown và Walter, 1983). Từ 
góc độ giảng dạy, các hoạt động lập bài 
toán dẫn tới nhiều chủ đề thiết yếu liên 
quan đến sự hiểu biết, khả năng và thái độ 
của học sinh và trở thành một công cụ đánh 
giá tố