Chương này liên quan tới những phương pháp liên hệsựthay đổi chất
lượng môi trường với sựthay đổi mối quan hệsản xuất. Nhưcách định giá, giá
trịmôi trường và chi phí du lịch, những phương pháp này là những cách tiếp cận
giá trịhàng hóa phi thị trường. Trong thực tế, đểdễdàng khi xem xét, phương
pháp chi phí du lịch có thể coi như1 trường hợp đặc biệt của phương pháp tiếp
cận hàm sản xuất. Những hàm sản xuất này có thểliên quan tới lĩnh vực sản
xuất hàng hoá, dịch vụhoặc dịch vụsản xuất hộgia đình, cái tạo ra lợi ích xác
định . Cách mô tảsau cùng vềhành vi hộgia đình này dường nhưkhông thông
dụng ởcảm tưởng đầu tiên. Mặc dù vậy, mọi người có thểthấy các hộgia đình
cũng kết hợp nhiều hàng hoá sẵn có để sản xuất hàng hóa khác.
14 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hàng hóa chất lượng môi trường: tiếp cận hàng sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÀNG HÓA CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG: TIẾP CẬN
HÀNG SẢN XUẤT.
HÀNG HÓA CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG: TIẾP CẬN
HÀNG SẢN XUẤT.
1. Giới thiệu
Chương này liên quan tới những phương pháp liên hệ sự thay đổi chất
lượng môi trường với sự thay đổi mối quan hệ sản xuất. Như cách định giá, giá
trị môi trường và chi phí du lịch, những phương pháp này là những cách tiếp cận
giá trị hàng hóa phi thị trường. Trong thực tế, để dễ dàng khi xem xét, phương
pháp chi phí du lịch có thể coi như 1 trường hợp đặc biệt của phương pháp tiếp
cận hàm sản xuất. Những hàm sản xuất này có thể liên quan tới lĩnh vực sản
xuất hàng hoá, dịch vụ hoặc dịch vụ sản xuất hộ gia đình, cái tạo ra lợi ích xác
định . Cách mô tả sau cùng về hành vi hộ gia đình này dường như không thông
dụng ở cảm tưởng đầu tiên. Mặc dù vậy, mọi người có thể thấy các hộ gia đình
cũng kết hợp nhiều hàng hoá sẵn có để sản xuất hàng hóa khác.
Ví dụ, một hộ gia đình nông thôn có thể kết hợp chất lượng nước tại nguồn, với
thiết bị xử lý nước để sản xuất nước uống. Sự tăng mức độ ô nhiễm của nguồn
nước ( nitrat hóa ) dẫn đến hộ tiêu dùng giảm mức độ tiêu dùng nước hoặc có
thể tăng cường mua thiết bị xử lý nước. Cách khác, hộ gia đình có thể dành thời
gian và điện đun nước nếu có sự ô nhiễm.
Các doanh nghiệp cũng kết hợp những đặc tính môi trường tự nhiên với những
đầu vào được mua để sản xuất hàng hoá.
Vd: 1 nông trang kết hợp chất lượng không khí ( Q1 ) và chất lượng nước ( Q2 )
với đầu vào được mua để sản xuất sữa đậu nành.
X2=f (L, K, I,Q, Q2 )
L, K là lực lượng lao động với vốn đầu vào được mua như phân bón,
thuốc trừ sâu và X2 là đầu ra của sữa đậu nành. Nếu chúng ta giả sử rằng ... là
xác định và sự giảm chất lượng không khí, các yếu tố khác không thay đổi, sẽ
làm giảm mức đầu ra. Nói 1 cách khác, để duy trì X2, lương đầu vào khác phải
được tăng lên. Giá trị thay đổi Q1 có thể từ đó biết được ước lượng bằng cách
định giá tác động đối với sản xuất. Một phương pháp tiếp cận tương tự được
nhìn nhận đối với sự thay đổi của Q2.
Tất cả những phương pháp được phát hoạ trong chương này đã chia sẽ
cho ta thấy những đặc trưng sự thay đổi chi phí bởi sự cần thiết của việc thay thế
đầu vào khác do sự thay đổi môi trường. Chúng ta tìm được 2 phương pháp:
phương pháp chi phí tránh và phương pháp liều lượng - đáp ứng. Mối liên kết
giữa 2 phương pháp là đánh giá tình trạng bệnh tật của con người và số tử vong,
là kết quả để đưa ra quyết định phê chuẩn 1 dự án và xác định tiêu chuẩn môi
trường.
2. Phương pháp chi phí tránh.
2.1. Khái niệm
Khi xảy ra sự thay đổi chất lượng môi trường, hộ gia đình có thể phản ứng
lại. Trong trường hợp suy giảm chất lượng, chi phí bỏ ra cũng giảm đi và bảo vệ
hộ gia đình không bị giảm phúc lợi. Giá trị của việc cải tiến chất lượng môi
trường có thể lập tức dẫn đến việc các chi phí bằng các hành động phòng ngừa,
nghĩa là giảm chi phí có thể tránh được ( AE ). Nếu AE và chất lượng môi
trường là những sản phẩm thay thế hoàn hảo, sự phỏng đoán chính xác những
hiệu quả phúc lợi của hộ gia đình bởi sự thay đổi chất lượng môi trường sẽ được
cung cấp bởi sự thay đổi kết hợp những thay đổi trong AE ( Smith, 1991 ).
Một ví dụ sự gia tăng tiếng ồn máy bay do có 1 sân bay mới. nếu thiếu sự
can thiệp, hộ gia đình sẽ tham dự vào hành vi có thể tránh được ( như tránh xa
khỏi khu vực đó ) (đây là 1 tác động có thể tính vào giá trị môi trường ) hoặc
chịu đựng tiếng ồn ở nhà của họ. Trên lý thuyết, lợi ích của chính sách giảm
tiếng ồn máy bay ( Vd như yêu cầu các phi cơ phản lực yên tĩnh hơn ) có thể dẫn
tới tránh được những chi phí của AE. Tuy nhiên phương pháp này gần như tất
yếu tạo ra sự đánh giá thấp những lợi ích của 1 chính sách đến hộ gia đình. Đó là
bởi vì AE và hoà bình và sự yên tĩnh trong vd này là sự thay thế không hoàn
hảo, hộ gia đình có thể mua ở mức mong muốn Q=AE. Dù vậy thậm chí người
tiêu dùng trực tiếp, AE và Q ít khi thay thế hoàn hảo. Ví dụ, hộ gia đình có thể
chịu đựng tiếng ồn trong vườn như vậy, tiền tiết kiệm trong AE có thể đánh giá
thấp của việc giảm mức độ ồn , vì trong một số khía cạnh của ô nhiễm , tiếng ồn
không thể bù đắp bởi AE( trừ khi các cá nhân chuyển nhà ).
Một số khó khăn khác có thể tồn tại liên quan tới sự đánh giá của AE
trong những thay đổi chất lượng môi trường. Sự đầu tư vào thiết bị bảo vệ có thể
có khó khăn trong việc đảo ngược ngăn ngừa hộ gia đình dịch chuyển khỏi điểm
chi phí biên và lợi ích biên của sự tránh né là bằng nhau. Nhà phân tích phải bảo
đảm rằng những thay đổi trong AE được sinh ra hoàn toàn bởi sự thay đổi môi
trường và không phải yếu tố nào khác. Cuối cùng AE có thể tạo ra những lợi ích
khác hơn sự tránh ô nhiễm lắp 2 lần kính không chỉ bớt mức độ ồn mà còn giảm
sự mất đi năng lượng môi trường và như vậy tiết kiệm tiền điện. Điều đó có thể
làm cho AE đánh giá cao chi phí tăng mức độ ồn.
Bartik ( 1988 ) chỉ ra rằng, dưới những điều kiện tất yếu chi phí bảo vệ
cung cấp cả giới hạn trên và dưới thước đo phúc lợi chính xác của giá trị tương
đương và bồi thường cho sự biến đổi. Điều đó được minh họa bằng đồ thị 6.1. (
nguồn từ Bartik )
Chất lượng môi trường, Q có thể được mua bởi cam kết chi phí bảo vệ,
đây là một hàm của giá của hành vi tránh được p, p .... mức độ ô nhiễm của .../
Qm và ... theo thứ tự đường cầu Marshallian of Q ( ... điều kiện hoà bình và yên
tĩnh) và đường cầu Hicksian of Q với mức thay đổi đầu mức hiệu dụng Vo. Nếu
ô nhiễm giảm từ ... thì hộ gia đình có thể giảm chi phí bảo vệ. Sự giảm này được
phần a là phần hộ gia đình muốn có mức thay đổi mức hiệu dụng của chất lượng
môi trường Qo.Quy mô đền bù của việc giảm ô nhiễm là phần [ a+b]. Quy mô
giá trị tương đương sẽ lớn hơn phần này hiệu dụng, V1 và được biểu thị bằng
phần [ a+b+c+d ].
Dù vậy tiền tiết kiệm trong chi phí bảo vệ cần thiết tới mức sự thay đổi sau này
của Q được đo lường, phần đó sẽ rộng hơn [ a+b+c+d+e ].
Sự thay đổi kéo theo trong chi tiêu cho việc bảo vệ sẽ không là các phạm vi mà
là phần [ a+g+h ].
3 Hàm liều lượng đáp ứng
Phương pháp liều lượng - đáp ứng nghiên cứu mối quan hệ giữa biến chất
lượng môi trường và mức sản lượng đầu ra trên thành phẩm. Sản lượng đầu ra
có thể được định nghĩa hoặc là giới hạn về số lượng.( Ví dụ: m3 gỗ được sản
xuất ở 1 khu rừng ) hoặc là giới hạn về chất lượng ( Ví dụ: như mức độ thiệt hại
của các ngôi nhà bởi sự phá huỷ của axit ) ví dụ chung nhất là mối liên quan
chất lượng không khí ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ( Ví dụ Adams et al
1989, Adams et al. 1982 ) và sự ô nhiễm ảnh hưởng đến nghành công nghiệp cá
( Ví dụ Kahn, Kemp, 1985, Kahn. 1991, Sivandu and Deake. 1991 ).
Các phương pháp kỹ thuật đã tiếp nhận những thông tin khoa học tự nhiên
về ảnh hưởng vật lý của ô nhiễm và dùng vào 1 mô hình kinh tế. Như vậy
phương pháp có thể chia làm 2 phần :
+ Nguồn gốc của liều lượng chất ô nhiễm và hàm phản ứng đáp lại/
+ Mô hình kinh tế và sự áp dụng của nó.
Phần còn lại ở phần này sẽ sử dụng ví dụ của sự ô nhiễm không khí ảnh
hưởng tới vụ mùa nông nghiệp.
Một sự thay đổi trong mức độ ô nhiễm sẽ làm thay đổi yếu tố và các khả
năng thay thế, hạn chế sự lựa chọn sản xuất nông nghiệp và vì thế ảnh hưởng
đến quyết định của người nông dân trong việc theo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Để có thể dự đoán sự thu về hay mất đi của kết quả lợi nhuận từ một sự
thay đổi đòi hỏi phải có sự phân tích về quá trình sinh học, khả năng công nghệ
và sự tương tác của chúng với quyết định của nhà sản xuất và ảnh hưởng của sự
thay đổi kết quả sản xuất tới chi tiêu phúc lợi xã hội. Quy trình sinh học hay dữ
liệu sản xuất đáp ứng đã đưa ra mối liên hệ giữa liều lượng chất ô nhiễm và các
thông số biểu diễn hệ thống sản lượng mùa màng. Mối quan hệ đáp ứng có thể
xác định trực tiếp sản lượng từ sự thử nghiệm sinh học, xác định gián tiếp từ đối
tượng quan sát sản lượng và dữ về cách cư sử của nhà sản xuất ( thông tin lấy từ
tài liệu tích tụ từ trước ) hay từ sự kết hợp của nguồn dữ liệu. Trình tự của mô
hình dựa trên mô hình của nhà sản xuất ( Ví dụ như hàm sản xuất hay hàm chi
phí ) phù hợp với quan điểm phân tích kinh tế và có thể xác định được một hàm
liều lượng - đáp ứng rõ ràng.
Người ta đã cố gắng áp dụng hàm chi phí và hàm sản xuất để xác định số
lượng thiệt hại mùa màng theo vùng từ khí ozôn. Nhưng sự khác nhau giữa dữ
liệu và số lượng thống kê đã hạn chế ứng dụng của chúng.
Hiện tại hàm liều lượng đáp ứng được tính toán kỹ càng để áp dụng rộng
rãi ... quyết định kinh tế về ảnh hưởng môi trường tới nông nghiệp.
3.1. Giá trị của sự thay đổi sản lượng trong mùa màng nông nghiệp
Nhiều phương pháp áp dụng để đánh giá lợi nhuận từ việc giảm thiểu thiệt
hại mùa màng gây ra bởi sự ô nhiễm không khí. Ba loại phương pháp chủ yếu
được đưa ra 3 mô hình:
+ Mô hình truyền thống
+ Mô hình tối ưu
+ Mô hình toán kinh tế
Các phương pháp kỹ thuật toán kinh tế nhằm dựa vào những kiến thức
kinh nghiệm kinh tế trước đấy vì thế khó lĩnh hội được hết. Nhiều người đọc có
thể bỏ sót phần cuối của phần này làm mất đi tính liên tục.
* Mô hình truyền thống.
Mô hình truyền thống là một phương pháp đơn giản gắn với giá trị bằng
tiền của sự thay đổi sản lượng mùa màng. Mô hình này có nhiều tên khác nhau:
phương pháp lịch sự, mô hình "chất phác", phương pháp sinh học và phương
pháp ...
Cho đến sau những năm 1970, mô hình truyền thống là dạng được sử
dụng nhiều nhất xác định giá trị bằng tiền của mùa màng được xác định ở Mỹ.
Mô hình đã tăng lên nhiều lần những ước lượng về một sự thay đổi mùa màng
dựa trên diện tích sản xuất hiện thời, bằng giá hiện hành của vụ mùa. Điều này
ám chỉ thừa nhận sự đáp ứng đơn giản về nguyên liệu được sử dụng và giá cả.(
như là thặng dư tiêu dùng ) còn lại không đổi. Trong việc xác định thiệt hại mùa
màng của trong vùng, giả định giá trị thị trường sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự
tăng sản lượng là một đặc trưng đáng chú ý bởi vì mức tăng đó được giả sử là có
ảnh hưởng nhỏ đến thị trường trong nước.
Tuy nhiên nó có thể gây ra những sai lầm nghiêm trọng trong việc ước
tính lợi nhuận những vụ mùa mà có mối liên hệ theo vùng trong sản xuất: Ví dụ
như sự suy giảm đáng kể sản lượng ngô trong vùng Bert của Mỹ thực tế không
làm thay đổi mức giá cố định khác với những phương pháp khác mô hình truyền
thống không thể bỏ giả định về một mức giá cố định cũng có thể đo lường được
thay đổi trong thặng dư tiêu dùng và không tính đến các tác động rải rác.
Một số nhà phân tích yêu cầu mô hình truyền thống phải được lý giải như
một sự gắn bó trước hết với sự thay đổi thặng dư tiêu dùng từ sự thay đổi chính
sách và từ đây sẽ có thích ứng về kinh tế.Tuy nhiên những nhà nghiên cứu đã so
sánh mô hình truyền thống và những kiến thức sâu hơn về phương pháp kỹ thuật
và nhận thấy rằng mô hình đã ước lượng lợi nhuận cao vượt quá 20% - 100%.
Vì mô hình truyền thống có thể đo lường không chính xác ( tức là nó chứa
hằng thặng dư tiêu dùng ) và sự khác biệt này thậm chí rất "kịch" khi chỉ xem
xét ảnh hưởng của nhà sản xuất, các ước lượng trình tự không mô hình truyền
thống có quy mô gấp 4 lần những phương pháp kinh tế - kỹ thuật khác.
Ưu điểm của mô hình truyền thống là không cần nhiều thông tin. Thêm
vào đó, mức độ thiệt hại có thể tính toán nhanh và không tốn nhiều chi phí. Kết
quả là các bước thực hiện trong mô hình được các kinh tế cắt giảm nhiều như sự
đúc rút tính phi thực tế là đã bỏ qua những ảnh hưởng về giá và không có khả
năng điều phối kết quả xảy ra.
* Mô hình tối ưu
Có 2 loại mô hình tối ưu:
+ Mô hình tuyến tính
+ Mô hình phương trình bậc 2
Cả 2 mô hình đều đòi hỏi phải cung cấp nguồn dữ liệu lớn và có khả năng
lý giải như một chương trình vi tính bởi cơ cấu phức tạp của chúng. Cả LP và
QB đều giống nhau về phương pháp đều có những yêu cầu kèm theo.
+ Một hàm mục tiêu có khả năng tối đa hoá hoặc tối thiểu hóa.
+ Phương pháp thay thế hoặc quá trình đạt mục tiêu.
+ Nguồn tài nguyên và những yêu cầu khác.
Các mô hình đã mô tả thế giới hãy như nó như thế, đưa ra sự thừa nhận tất
yếu tức là chúng là vĩ mô hình có tính chuẩn mực.
Mô hình LP có thể xác định nhằm tối thiểu chi phí hoặc tối đa hoá lợi
nhuận. Trong trường hợp trước , tối thiểu hoá chi phí của hoạt động sản xuất
được lựa chọn để sản xuất hàng hoá.và bị phê phán là làm hạn chế sản lượng (
Ví dụ ........) Đặc điểm cơ bản của mô hình LP là :
- Mối quan hệ sản xuất tuyến tính nghĩa là hệ số giữa đầu vào và sản
lượng đầu ra là không thay đổi.
Mối quan hệ sản xuất tuyến tính là đại lượng biến thiên, 1 hoạt động sản xuất có
thể sử dụng lượng nhỏ hơn hoặc bằng ( chứ không lớn hơn) lượng tài nguyên
sẵn có.
- Hàm mục tiêu tuyến tính.
- Xác định rõ toàn bộ mối quan hệ nếu trái với dự đoán trong mô hình
toán kinh tế.
- Đưa ra những dẫn chứng.
- Tính chia hết của lượng đầu vào và đầu ra.
- Tính hữu hạn : Đó là sự giới hạn hoạt động khai thác và giới hạn nguồn
tài nguyên cho phép.
- Giá trị riêng dự tính là mang tính chắc chắn.
Trong mô hình LP, hàm liều lượng đáp ứng sinh học có thể được sử dụng
thay thế sản lượng đầu ra sản xuất từ đầu vào đáp ứng cho mỗi hoạt động sản
xuất vì thế có thể mô phỏng ảnh hưởng của ô nhiễm không khí.
Cả LP và QP đều giả định đường cung cong vô hạn đàn hồi với các đầu
vào thay đổi và lợi nhuận không thay đổi để chia tỷ lệ. Lượng cầu được xác định
là biến ngoại sinh khi mục tiêu của LP là chi phí tối thiểu trong khi giá là biến
ngoại sinh khi mục tiêu là lợi nhuận tối đa.
Trong QP, giá và lượng được xác định là biến nội sinh.
Đây chính là điểm khác biệt cơ bản của 2 mô hình.
Những mô hình tối ưu có thể đưa ra cụ thể về việc phân phối lợi nhuận và
mối quan hệ qua lại phức tạp của 1 nền kinh tế, cho phép xem xét những ảnh
hưởng gián tiếp. Tuy nhiên, khi mâu thuẫn xuất hiện giữa giải pháp của mô hình
và tính thực tế thì mô hình trở nên không đáng tin.
Những mâu thuẫn này có thể xuất phát từ những mô hình sản xuất sai lầm
chưa phù hợp, hay chỉ bởi thực tế thế giới thực sự đang hoạt động kém điều kiện
tối ưu vì thị trường bị can thiệpo hay bóp méo. Những mô hình tối ưu nhìn
chung là những công cụ dự báo nghèo nàn nhưng có thể được phát triển bằng
chương trình đệ quy.
* Mô hình thống kê toán kinh tế.
Mô hình thống kê toán kinh tế trái với những mô hình tối ưu vì sử dụng
các cơ sở dữ liệu về tự nhiên để phát triển, phản ánh tính thực tế lịch sử qua thời
gian và không gian. Ứng dụng này là mục tiêu nhận thức mà kết quả có thể kiểm
tra nghiêm ngặt bằng sử dụng những phương pháp khoa học và phương pháp
thống kê, mặc dù xu hướng tư tưởng mong đợi cả hai trong sự lựa chọn các câu
hỏi đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và suy luận được rút ra từ căn cứ thực tế.
Mô hình thống kê toán kinh tế không thể nắm bắt được những hiệu quả
của sự phát triển công nghệ mới bằng 1 khoảng thời gian (hay không gian) của
nguồn dữ liệu cũng như không thể ước lượng được ảnh hưởng đến việc bố trí lại
bộ phận sản xuất mà giá trị thị trường dần không phản ánh được. Đó là cơ chế
cho bằng nhận.
Theo Koppet al (1984), có 3 loại mô hình thống kê toán kinh tế cho việc
xác định mùa màng từ việc ô nhiễm:
+ Mô phỏng cung cấp tổng quát
+ Mô hình cung cấp theo lý thuyết vi mô
+ Mô hình hàm chi phí - lợi nhuận theo phương pháp thống kê toán kinh
tế tân cổ điển :
Mô hình cung cầu tổng quát đòi hỏi không cao trong cách lý luận, loại bỏ
những xác định chung chung của những biến ảnh hưởng đến giá và một quyết
định liệu rằng hệ thống là đồng thời hay lặp lại. Mô hình có thể là lặp lại trong
mỗi phương trình của hệ thống có thể được giải quyết lần lượt vì mỗi phương
trình đều có thứ tự sắp xếp theo thời gian. Vì vậy giá trị được giải ra có thể xác
định ở phương trình tiếp theo như 1 biến dự toán. Ví dụ như một người nông
dân có thể sử dụng phương pháp sản xuất hiện hành và xen cạnh để giúp cho
quyết định sản xuất năm tiếp theo.Khi đó sản lượng là yếu tố xác định trước, giá
là yếu tố xác định sau và mô hình không đồng thời.
Những mô hình cung cầu vi mô chỉ ra 1 hàm mục tiêu cho các doanh
nghiệp trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo mà mọi hoạt động có thể ước định .
Cơ sở của lý thuyết tân cổ điển yêu cầu sự gắn bó vững chắc với các điều kiện
giả định phương pháp vi mô đã nắm bắt được cả phương diện khoa học kỹ thuật
sản xuất và phương diện hành vi của nhà sản xuất.Các thông số của mô hình có
thể thiết lập nên hàm quan hệ ô nhiễm để mà những thay đổi trong mối quan hệ
được phản ánh bởi những sự thay đổi trong các thông số đó và sự thay đổi trong
hàm cung. Lý thuyết vi mô có khả năng kết hợp những thông tin sinh vật học
hay ước lượng thông số của hàm sinh vật học trực tiếp từ hành vi của nhà sản
xuất. Trong trường hợp sau cùng, phương pháp trở thành 1 mô hình thống kê
toán kinh tế và tân cổ điển và độc lập với một hàm liều lượng xác định.
Trong những năm gần đây, mô hình thống kê toán kinh tế đã đi xa hơn
việc sử dụng hàm sản xuất. Trở ngại trong việc sử dụng hàm sản xuất nằm trong
việc cần thiết phải xác định rõ ràng hàm sản xuất ( Ví dụ : Cobb Douglas ). Sự
ưu tiên xác định của công nghệ sản xuất có thể tạo ra những hạn chế không thể
chấp nhận được ( trong giới hạn hành vi giả đinh ) trong hàm cung sản lượng và
hàm cầu yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Như vậy, cả 2 phương pháp đã được
đưa ra thay thế nhau trông được rất nhiều vấn đề trong ước định.
Giả sử đơn vị sản xuất là một nông trại thuê các yếu tố đầu vào để sản
xuất ra sản lượng đầu ra và giả sử có sử dụng công nghệ kỹ thuật thì hàm sản
xuất chính là sự mô tả sự biến đổi nguyên liệu đầu vào thành sản lượng. Bất cứ
ảnh hưởng tự nhiên từ sản lượng có thể quy vào một biến môi trường (Ví dụ ô
nhiễm không khí) phải tác động đến sản lượng thông qua một sự biến đổi khả
năng sản xuất của nông trại đó. Khả năng sản xuất của nông trại đó bị giới hạn
bởi nhân tố sản xuất cố định, sức quản lý, khả năng sản xuất cái gì, khả năng
công nghệ và môi trường tự nhiên.
Hàm sản xuất sử dụng sản lượng tối đa như một hàm của yếu tố đầu vào
trong khi hàm biến thiên lấy vectơ sản lượng ròng tối đa.Vì hàm biến đổi giống
như một tiêu chuẩn để đánh giá sự thiếu khả năng công nghệ của nông trại với
nhiều sản lượng cả hai phương pháp che phép hàm chi phí, hàm thu nhập, hàm
lợi nhuận được thành lập tiêu điểm của việc ước định theo kinh nghiệm bởi sự
phù hợp thích nghi với khả năng sản xuất của nông trại tính đối ngẫu này đảm
bảo rằng bất cứ tác động nào đến khả năng sản xuất có thể nhạn ra khả năng vì
ảnh hưởng của một tác động của chiều hướng biến đổi môi trường sẽ được biểu
hiện trong hàm biến đổi. thêm vào đó khả năng sản xuất của một nông trang đối
ngược với một công nghệ sản xuất đầu ra (Ví dụ rơm và hạt thóc) có thể được
miêu tả đầy đủ và hàm biến đổi có hai phương pháp tiếp cận sản lương được áp
dụng vào vụ mùa nông nghiệp là hàm lợi nhuận và hàm chi phí. một cách nhìn
tổng quan về mối quan hệ giữa sản lượng và đoi phương pháp trong tình huống
nông nghiệp có thể tìm thấy lượng Capalbo và Antle ( 1988 ).
Ngoài tác động kinh tế trực tiếp của ô nhiễm môi trường lên người sản
xuất và người tiêu dùng, tác đông gián tiếp cũng có thể rất quan trọng tác đông
gián tiếp là những thay đổi gây sư biến đổi trong sản phẩm gây ô nhiễm xảy ra
trên những thị trường khác và các bộ phận của nền kinh tế. ví dụ như tình trạng
chia rẽ trong nền sản xuất các sản phẩm lấy từ vật nuôi là kết quả của sự phá hủy
tầng ôzôn tới nguồn thức ăn cho vật nuôi. Một mô hình kinh tế toàn diện sẽ bao
gồm tất cả những sự thay đổi gián tiếp trong phúc lợi xã hội trong việc xác định
lợi ích.
4 Kết luận
Chương này đã chỉ ra những con đường của tác động về giá trị môi trường
sử dụng hàm sản xuất cơ bản. Quan điểm của một hàm sản xuất hộ gia đình là
đẩy lui mức phí tổn, đó có thể là một ước lượng quá cao hoặc quá th