Bây giờ, khi tri giác như thế, ý thức đồng thời cũng ý thức rằng nó cũng
phản tư vào trong chính nó và rằng, trong việc tri giác, yếu tố đối lập
với cái CŨNG xuất hiện ra. Nhưng yếu tố [đối lập] này là sự thống nhất
[nhất thể] của sự vật với chính nó, một sự thống nhất loại trừ sự khác
biệt ra khỏi nó. Do đó, chính sự thống nhất này là cái mà bây giờ ý thức
nhận về phía mình, vì bản thân sự vật là sự cùng tồn tại của nhiều
thuộc tính khác nhau và độc lập với nhau. Cho nên ta mới nói về sự vật
rằng: nó là trắng, và cũng là lập phương và cũng là mặn và v.v. Nhưng,
trong chừng mực nó là trắng, thì nó không phải là lập phương, và trong
chừng mực nó là lập phương và trắng
7 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1722 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện tượng học tinh thần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC
TINH THẦN
[Phần 2]: TRI GIÁC
§ 121
Bây giờ, khi tri giác như thế, ý thức đồng thời cũng ý thức rằng nó cũng
phản tư vào trong chính nó và rằng, trong việc tri giác, yếu tố đối lập
với cái CŨNG xuất hiện ra. Nhưng yếu tố [đối lập] này là sự thống nhất
[nhất thể] của sự vật với chính nó, một sự thống nhất loại trừ sự khác
biệt ra khỏi nó. Do đó, chính sự thống nhất này là cái mà bây giờ ý thức
nhận về phía mình, vì bản thân sự vật là sự cùng tồn tại của nhiều
thuộc tính khác nhau và độc lập với nhau. Cho nên ta mới nói về sự vật
rằng: nó là trắng, và cũng là lập phương và cũng là mặn và v.v.. Nhưng,
trong chừng mực nó là trắng, thì nó không phải là lập phương, và trong
chừng mực nó là lập phương và trắng, thì nó không phải là mặn và v.v..
Việc thiết định các thuộc tính này thành cái Một (Ineinsetzen)(224) chỉ
là công việc của riêng ý thức nhằm để tránh việc chúng trở thành cái
Một ở trong sự vật. Nhằm mục đích này, ý thức đưa ra [ý tưởng về] cái
“trong chừng mực”, nhờ đó bảo tồn các thuộc tính như là tách rời
nhau và duy trì sự vật [trong ý nghĩa] như là cái CŨNG. Đúng thực ra,
chính ý thức thoạt đầu làm cho mình tự chịu trách nhiệm về cái “tồn tại
như là Một” này bằng cách là: cái trước đây được gọi là thuộc tính thì
nay được [ý thức] hình dung như là “chất liệu [vật chất] tự do” (freie
Materie) [latinh: materia libera: thuật ngữ của vật lý học đương thời]
[xem: §115]. Bằng cách như vậy, sự vật được nâng lên thành cái CŨNG
đích thực, vì nó trở thành một tập hợp của các chất liệu [các yếu tố hợp
thành], và thay vì tồn tại như cái Một, nó trở thành một mặt bằng bao
bọc chung quanh các chất liệu ấy(225).
§ 122
Nếu ta nhìn lại điều ý thức chịu trách nhiệm trong việc đã “nắm lấy”
trước đây và rồi “nắm lấy” hiện nay, cũng như điều nó vừa gán cho sự
vật trước đây vàđang gán cho sự vật hiện nay, rõ ràng là ý thức đã luân
phiên làm cho chính nó cũng như sự vật, cả hai khi thì trở thành một cái
Một thuần túy, không có tính đa thể [“cái Một” kiểu “nguyên tử”], khi
thì trở thành một cái Cũng tự giải thể thành nhiều “chất liệu” độc lập
với nhau [nhiều yếu tố cấu thành độc lập]. Vậy, thông qua sự so sánh
này, ý thức nhận ra rằng, không chỉ phương cách nắm lấy cái đúng thật
của nó [tri giác] có chứa đựng sự dị biệt của việc lãnh hội và của việc
quay trở về nơi chính nó, mà đúng hơn, cả bản thân cái đúng thật – tức
sự vật – cũng tự bộc lộ trong phương cách nhị bội [nhân đôi] này.
Như vậy, kinh nghiệm ở đây là: sự vật tự thể hiện ra cho ý thức đang
lãnh hội nó bằng một phương cách nhất định, [đặc thù], nhưng đồng
thời, sự vật cũng đi ra khỏi phương cách thể hiện nhất định ấy cho ý
thức và đã phản tư vào trong chính nó; nói khác đi, sự vật chứa đựng
nơi bản thân nó (an ihm selbst) một [tính] chân lý đối lập (eine
entgegengesetzte Wahrheit) [với chính mình].
§ 123
[III. Tiến trình hướng đến “tính phổ biến vô-điều kiện” và hướng đến
“vương quốc của giác tính”:]
Thế là, ý thức tự mình cũng đi ra khỏi [rời bỏ] phương cách thứ hai
trong thái độ hành xử khi tri giác, đó là việc nắm lấy sự vật như là cái
đồng nhất đúng thật, còn xem mình là cái gì không tự-đồng nhất mà
quay lại vào trong chính mình, ra khỏi sự đồng nhất. | Đối với ý thức,
đối tượng bây giờ là toàn bộ tiến trình vận động này mà trước đây đã
được chia đều ra giữa đối tượng và ý thức(226). Sự vật là một cái Một,
được phản tư trong chính nó; nó là cho mình, nhưng cũng là cho một
cái khác; tức là một cái khác tồn tại cho mình chính bởi vì nó tồn tại
cho một cái khác. Theo đó, sự vật là tồn tại cho mình và cũng là cho
một cái khác: một tồn tại có sự dị biệt nhị bội, nhưng cũng là một cái
Một; tính Một mâu thuẫn với tính dị biệt này của nó. | Do đó, ý thức lại
phải tự chịu trách nhiệm về việc đặt tính dị biệt vào trong cái Một và
tách rời việc này ra khỏi sự vật. Cho nên, ý thức [ắt] phải nói rằng, sự
vật, trong chừng mực nó tồn tại cho mình, thì không tồn tại cho một
cái khác. Thế nhưng, sự tồn tại-như-là Một cũng thuộc về bản thân sự
vật như ý thức đã có kinh nghiệm: sự vật là được phản tư vào trong
chính nó một cách bản chất. Cái CŨNG – hay là sự phân biệt dửng dưng
– tất nhiên cũng rơi vào [thuộc về] sự vật giống như sự tồn tại như là
MỘT, nhưng vì cả hai là khác nhau nên không thể rơi vào trong cùng
một sự vật mà là trong những sự vật khác nhau. | Cái mâu thuẫn hiện
diện nơi bản chất khách quan xét như cái toàn bộ chia đều ra nơi hai
đối tượng. Tự mình và cho mình, sự vật quả là ngang bằng với chính
mình, nhưng sự thống nhất này với chính mình bị những sự vật khác
quấy rối. | Theo cách [hiểu] như thế, sự thống nhất [nhất thể] của sự
vật được duy trì, và đồng thời cái tồn-tại-khác [của nó] cũng được duy
trì ở bên ngoài sự vật, cũng như ở bên ngoài ý thức(227).
§ 124
Bây giờ, dù đúng rằng bằng cách ấy, sự mâu thuẫn trong “bản chất
khách quan” được chia ra nơi những sự vật khác nhau, thì cũng vì thế,
sự phân biệt haysự dị biệt (der Unterschied) không phải không đến
với bản thân từng sự vật cá biệt, tách rời(228). Như thế, những sự vật
khác nhau được thiết định như là tồn tại cho-mình; và sự xung đột rơi
vào trong chúng một cách tương hỗ theo kiểu mỗi cái là chỉ khác
(verschieden) với cái khác chứ không phải với chính mình. Thế nhưng,
qua đó, bản thân mỗi cái được xác định như là một sự vật được phân
biệt, và có sự dị biệt bản chất (wesentlichen Unterschied) với những
cái khác nơi chính mình, song sự dị biệt này lại không đi đến mức trở
thành sự đối lập trong bản thân sự vật, trái lại, sự vật này, về mặt cho-
mình, là một tính quy định đơn giản tạo nên tính cách (Charakter) bản
chất của sự vật, làm cho nó phân biệt với những sự vật khác. Trong
thực tế, vì lẽ tính khác biệt (Verschiedenheit) là ở trong sự vật, nên
tính khác biệt này tất yếu phải hiện diện trong sự vật như là một sự
phân biệt hay dị biệt hiện thực (wirklicher Unterschied) có tính chất
cấu tạo (Beschaffenheit)(229) đa tạp. Nhưng bởi vì tính quy định tạo
nên bản chất của sự vật, nhờ đó nó tự phân biệt với những sự vật khác
và tồn tại cho-mình, nên tính chất cấu tạo đa tạp này là mặt không-bản
chất. Do đó, sự vật tuy có trong tính nhất thể của nó cái “trong chừng
mực” có tính lưỡng diện [hai mặt] nhưng không ngang bằng nhau về
giá trị. Kết quả là: tình trạng đối lập này (Entgegengesetztsein) không
phát triển thành một sự đối lập hiện thực ở bên trong bản thân sự vật,
nhưng, trong chừng mực sự vật này – thông qua sự phân biệt hay dị
biệt tuyệt đối (absoluter Unterschied) của nó – đi vào trong sự đối lập,
nó [mới có thể] là đối lập đối với sự vật khác ở bên ngoài nó. Tất nhiên,
tính đa tạp cũng tất yếu có mặt trong sự vật, không thể tước bỏ khỏi sự
vật, nhưng nó là mặt không-bản chất của sự vật(230).
§ 125
Tính quy định này (Bestimmheit)(231) – tạo nên tính cách bản chất của
sự vật và phân biệt sự vật với mọi sự vật khác – bây giờ được xác định
[được định nghĩa] theo kiểu là: sự vật – thông qua tính quy định ấy –
đối lập với những sự vật khác, nhưng cũng được giả định là tự-bảo tồn
cho-mình (für sich) ở trong sự đối lập này. Thế nhưng, sự vật là sự vật,
hay là một cái Một tồn tại cho mình chỉ trong chừng mực nó không ở
trong mối quan hệ này với những cái khác; vì lẽ trong mối quan hệ này,
đúng ra người ta thiết định sự nối kết [hay sự liên tục]
(Zusammenhang) với sự vật khác; và sự nối kết với sự vật khác là sự
chấm dứt của cái tồn tại cho-mình. Chính là thông qua tính cách tuyệt
đối (absoluter Charakter) và sự đối lập của nó mà sự vật quan hệ bản
thân nó với những cái khác, và một cách bản chất, chỉ là tiến trình
quan hệ này mà thôi. | Nhưng quan hệ [với cái khác] là sự phủ định
tính độc lập tự chủ (Selbstständigkeit) của mình, và do đó, thực ra sự
vật tiêu vong chính là do thuộc tính bản chất của nó.
§ 126
Sự tất yếu của kinh nghiệm, qua đó ý thức nhận ra rằng sự vật bị tiêu
vong chính bởi tính quy định (Bestimmheit) tạo nên bản chất và sự tồn
tại cho-mình của nó có thể xem xét ngắn gọn theo Khái niệm đơn giản
của sự tất yếu ấy như sau: Sự vật được thiết định như là tồn tại cho-
mình, hay là, như sự phủ định tuyệt đối đối với mọi cái-tồn-tại-khác, vì
thế là sự phủ định tuyệt đối chỉ tự-quan-hệ-với-chính-mình; nhưng
[loại] phủ định như thế là sự thủ tiêu chính mình, hoặc nói cách khác, là
tương đương với việc sự vật có bản chất của nó ở trong một cái
khác(232).
§ 127
Trong thực tế, sự quy định (Bestimmung)(233) về đối tượng, – như đối
tượng đã cho thấy – không chứa đựng điều gì khác. | Đối tượng phải có
một thuộc tính bản chất tạo nên sự tồn tại-cho-mình đơn giản của nó;
nhưng cùng với tính đơn giản này, đối tượng cũng phải có trong chính
mình tính khác biệt (Verschiedenheit); tính khác biệt này tuy là cần
thiết [tất yếu] (notwendig) nhưng không tạo nên tính quy định bản chất
của nó. Đó là một sự phân biệt chỉ còn ở trong ngôn từ; cái không-bản
chất lại được đồng thời giả định như là tất yếu ắt tự thủ tiêu chính nó. |
Đó là điều mới vừa được gọi là sự phủ định chính mình.