Với điều này, cái “trong chừng mực” cuối cùng – vốn đã tách rời cái tồn
tại cho-mình và cái tồn tại cho-cái-khác – cũng sụp đổ theo(234). Đúng
hơn, đối tượng, trong một và cùng một phương diện, là cái đối lập
của chính nó; đối tượng là cho-mình, trong chừng mực nó tồn tại cho-
cái khác, và tồn tại cho cái-khác, trong chừng mực là tồn tại cho-mình.
Nó là cho-mình, được phản tư vào trong chính mình, là cái Một; nhưng
cái tồn tại “cho-mình”, phản tư vào trong mình, cái tồn tại là Một này
lại ở trong một sự thống nhất với cái đối lập của nó, [tức] với cái “tồn
tại cho-cái khác”, và vì thế chỉ được thiết định như là một cái tồn tại-bị-
vượt bỏ (aufgehoben); hay nói khác đi, cái tồn tại cho-mình này cũng
không có tính bản chất giống hệt như cái đã được giả định rằng lẽ ra chỉ
riêng nó là không-bản chất, đó là: mối quan hệ với cái khác.
8 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện tượng học tinh thần [phần 2]: Tri giác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC
TINH THẦN
[Phần 2]: TRI GIÁC
§ 128
Với điều này, cái “trong chừng mực” cuối cùng – vốn đã tách rời cái tồn
tại cho-mình và cái tồn tại cho-cái-khác – cũng sụp đổ theo(234). Đúng
hơn, đối tượng, trong một và cùng một phương diện, là cái đối lập
của chính nó; đối tượng là cho-mình, trong chừng mực nó tồn tại cho-
cái khác, và tồn tại cho cái-khác, trong chừng mực là tồn tại cho-mình.
Nó là cho-mình, được phản tư vào trong chính mình, là cái Một; nhưng
cái tồn tại “cho-mình”, phản tư vào trong mình, cái tồn tại là Một này
lại ở trong một sự thống nhất với cái đối lập của nó, [tức] với cái “tồn
tại cho-cái khác”, và vì thế chỉ được thiết định như là một cái tồn tại-bị-
vượt bỏ (aufgehoben); hay nói khác đi, cái tồn tại cho-mình này cũng
không có tính bản chất giống hệt như cái đã được giả định rằng lẽ ra chỉ
riêng nó là không-bản chất, đó là: mối quan hệ với cái khác.
§ 129
Qua quá trình này, đối tượng, – trong những tính quy định thuần túy
của nó hay trong những tính quy định (Bestimmhei-ten) được giả định
là tạo nên tính bản chất (Wesenheit)(235) của nó – cũng bị vượt bỏ
giống như khi nó đã ở trong sự tồn tại cảm tính. Phát xuất từ cái tồn tại
cảm tính, đối tượng đã trở thành một cái phổ biến; nhưng cái phổ biến
này – vì nó có nguồn gốc từ cái cảm tính – nên cũng bị cái cảm tính điều
kiện hoá một cách bản chất, và vì thế, nói chung không phải là tính phổ
biến thực sự tự-ngang bằng với chính mình, mà là một tính phổ biến bị
tác động bởi một sự đối lập (ein Gegensatz)(236). Vì thế, tính phổ biến
này tự phân cắt thành những đối cực (die Extreme) giữa tính cá biệt và
tính phổ biến, giữa cái Một của các thuộc tính và cái Cũng của các “vật
chất [hay “chất liệu”] tự do”. Các tính quy định thuần túy này có vẻ
như diễn đạt được bản thân tính bản chất, nhưng [thực ra] chúng chỉ
đơn thuần là một cái tồn tại cho-mình bị tác động bởi cái tồn tại cho-
cái-khác. | Nhưng vì lẽ cả hai đều tồn tại một cách bản chất ở trong một
nhất thể duy nhất [như vừa nói trên kia] nên bây giờ ta có trước mắt
tính phổ biến tuyệt đối vô-điều kiện, và chính ở đây, ý thức lần đầu
tiên mới thực sự bước vào vương quốc của GIÁC TÍNH (Reich des
VERSTANDES)(237).
§ 130
Vậy, tính cá biệt cảm tính [“cái Này”] tuy đã tiêu biến đi trong tiến trình
vận động biện chứng của sự xác tín trực tiếp [tức “sự xác tín cảm tính”
ở Chương I] và trở thành tính phổ biến, nhưng chỉ là tính phổ biến cảm
tính. Sự “cho rằng” [của tôi] đã tiêu biến, và tri giác nắm lấy đối tượng
như nó tồn tại tự-mình, hay như là cái phổ biến nói chung; tính cá biệt,
do đó, lộ diện (hervortritt) ra trong tri giác như là tính cá biệt đúng thật,
như cái tồn tại tự-mình của cái Một, hay như sự tồn tại đã được phản
tư vào trong chính nó. Thế nhưng, nó vẫn còn là một cái tồn tại cho-
mình có điều kiện, bên cạnh nó còn tạo ra một cái tồn tại cho-mình
khác, tức là tính phổ biến đối lập lại với tính cá biệt và bị cái cá biệt điều
kiện hoá. | Nhưng hai cái đối cực mâu thuẫn nhau này không chỉ tồn tại
bên cạnh nhau, mà là ở trong MỘT nhất thể duy nhất, hay, đồng nghĩa
như thế, là tính cách chung (das Gemeinschaftliche) cho cả hai: cái “tồn
tại cho-mình” bị tác động bởi cái đối lập nói chung, nghĩa là, nó đồng
thời không phải là một cái “tồn tại cho-mình”. Sự ngụy biện(238) của
[quá trình] tri giác tìm đường cứu vãn các yếu tố này ra khỏi sự mâu
thuẫn của chúng, và tìm cách nắm bắt (ergreifen) cái đúng thật thông
qua việc phân biệt giữa các “phương diện”, thông qua việc bám chặt
(festhalten) lấy cái “CŨNG” và cái “TRONG CHỪNG MỰC”, và sau cùng,
thông qua việc phân biệt “cái không-bản chất” với một “cái bản chất”
đối lập với nó. Nhưng các thủ đoạn tìm tòi này – thay vì tránh xa sự
nhầm lẫn trong tiến trình lãnh hội – thực ra đã tự chứng tỏ là trống
rỗng, vô hiệu; và cái đúng thật – được giả định sẽ đạt được thông qua
lô-gíc này của [tiến trình] tri giác – cho thấy là cái đối lập (das
Gegenteil) [của chính nó] trong Một và trong cùng Một phương diện,
và do đó, chỉ có một tính phổ biến không-được-phân-biệt và không-
có-sự-quy-định làm [nội dung] bản chất của nó.
§ 131
Những sự trừu tượng trống rỗng này về “tính cá biệt” và về “tính phổ
biến” đối lập lại với tính cá biệt, cũng như về cái “bản chất” lại gắn liền
với một cái không-bản chất, về “cái không-bản chất” lại đồng thời là tất
yếu; đó là những quyền năng mà “trò chơi” tương tác của chúng chính
là thứ giác tính tri giác, hay còn thường được gọi là “giác tính lành
mạnh của con người” (gesunder Menschenverstand). | “Giác tính lành
mạnh” này tự cho rằng mình là ý thức thực sự vững vàng, xác thực
(gediegn real) nhưng tiến trình tri giác thực chất chỉ là trò chơi của các
sự trừu tượng này; nói chung, nó bao giờ cũng là nghèo nàn nhất ở nơi
mà nó “cho rằng” dường như là phong phú nhất. Trong khi nó quanh
quẩn với những “thực thể” trống rỗng này, hết bị xô đẩy vào tay cái này
lại bị xô đẩy vào tay cái khác; rồi, bằng sự ngụy biện, cố bám chặt lấy và
khẳng quyết một “thực thể” để sau đó lại tới phiên bám giữ và khẳng
quyết chính cái đối lập ngược lại, nó tự đặt mình chống lại chân lý mà
lại “cho rằng” triết học chỉ làm việc với những “Vật tư tưởng”
(Gedankendinge) [những ý niệm đơn thuần]. Trong thực tế, triết học
quả là vẫn làm việc với chúng [những “vật-tư tưởng”] và thừa nhận
chúng là những bản chất thuần túy, là những yếu tố và quyền lực tuyệt
đối, nhưng đồng thời cũng nhận thức rõ về chúng trong tính quy định
của chúng (in ihrer Bestimmheit), do đó, triết học làm chủ được chúng;
trong khi đó, thứ giác tính tri giác nọ [hay “giác tính lành mạnh”] lại
nắm lấy chúng như là cái đúng thật và bị chúng dẫn dắt từ sai lầm này
đến sai lầm khác. Bản thân tri giác không đến được với ý thức rằng
chính những tính bản chất đơn giản này đang hoạt động và chế ngự
bên trong nó; nó lại tưởng rằng lúc nào cũng đang được làm việc với
chất liệu có thực thể và với nội dung hoàn toàn vững chắc; giống như
sự xác tín cảm tính đã không ý thức rằng bản chất của nó chỉ là sự trừu
tượng trống rỗng của cái tồn tại thuần túy. | Nhưng trong thực tế,
chính những yếu tố bản chất này làm cho thứ giác tính tri giác ấy phải
chạy tới chạy lui thông qua tất cả những loại chất liệu và nội dung ấy;
chúng là sức mạnh cố kết và làm chủ nội dung này [của tri giác]; chỉ có
chúng mới tạo nên bản chất của những sự vật cảm tính cho ý thức; xác
định các mối quan hệ của cái cảm tính này với ý thức; và tiến trình của
tri giác lẫn của “cái đúng thật” của tri giác diễn ra không ở đâu khác hơn
là ở bên trong chúng. Trình tự của quá trình này, một sự xác định luân
phiên liên tục của cái đúng thật và của sự vượt bỏ sự xác định ấy đã
thực sự tạo nên đời sống và hoạt động hàng ngày và bền bỉ của ý thức
tri giác, của thứ ý thức tưởng rằng mình đang vận động ở trong chân lý.
Ý thức cứ tiến lên trong tiến trình ấy một cách không ngừng nghỉ cho
đến kết quả cuối cùng, là khi những yếu tố bản chất tối hậu hay những
tính quy định này đều bị vượt bỏ như nhau; nhưng trong mỗi yếu tố
riêng lẻ [cá biệt], ý thức tri giác chỉ đơn thuần ý thức về một tính quy
định được cho như là cái đúng thật, và rồi lại quay sang cái đối lập. Nó
không phải không nghi ngờ tính không-bản chất của chúng, và để cứu
vãn chúng ra khỏi nguy cơ đang đe dọa, nó lại chuyển sang dùng lối
ngụy biện: nay khẳng định là cái đúng thật chính cái mà bản thân nó
mới trước đó đã khẳng định là không phải cái đúng thật. Điều mà bản
tính tự nhiên của các “thực thể không thật” này thực sự muốn ép buộc
giác tính [tri giác] này phải làm, đó là hãy kết hợp chung lại
(zusammenbringen) và qua đó vượt bỏ các ý tưởng về “tính phổ biến”
và “tính cá biệt”, về cái “Cũng” và cái “Một”, về “tính bản chất” mà lại
tất yếu nối kết với một “tính không-bản chất”, và về một cái “không-
bản chất” mà lại “tất yếu”. | Thế nhưng giác tính [tri giác], ngược lại, cứ
ra sức tránh né việc làm này bằng cách bám chặt vào các chỗ dựa là sử
dụng các cách nói “trong chừng mực”, “các phương diện khác nhau”,
hoặc là tự nhận trách nhiệm về một ý tưởng để tách rời nó với những ý
tưởng khác và duy trì nó như là ý tưởng đúng thật. Thế nhưng, chính
bản tính tự nhiên của những cái trừu tượng [trống rỗng] này sẽ tự kết
hợp lại với nhau đúng như chúng tồn tại tự-mình và cho-mình; còn
“giác tính lành mạnh” [tri giác] mới thực là con mồi cho chúng, bị chúng
đẩy vào vòng xoáy của riêng chúng. Khi “giác tính” [tri giác] muốn mang
lại tính chân lý cho chúng bằng cách khi thì nhận sự không phải-sự thật
của chúng về phía mình, khi thì gọi sự lừa dối [của chúng] chỉ là một vẻ
bề ngoài của tính không đáng tin cậy [không chắc chắn] của những sự
vật, tách rời cái bản chất ra khỏi một yếu tố tất yếu đối với chúng và
xem là không-bản chất, rồi lấy cái trước làm cái đúng thật của chúng để
chống lại cái sau: khi “giác tính” [tri giác] cứ làm như vậy, nó không
đảm bảo tính chân lý cho những cái trừu tượng trống rỗng này, nhưng
lại tự mang lại tính không phải-chân lý cho bản thân mình.
(còn nữa)
Nguồn: Georg Wilhelm Friedrich Hegel. 2006. Hiện tượng học tinh thần
(Phänomenologie des Geistes). Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Hà
Nội: Nxb. Văn học. Bản điện tử của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn. Bản đăng
trên triethoc.edu.vn có sự cho phép của dịch giả.
(203) Cái Tôi như là “cái Tôi suy tưởng”; đối tượng là “đối tượng có
quảng tính”, chứ không còn là “con người này” và “cái này” cá biệt.
(204)Ta luôn ghi nhớ hai giác độ xem xét hiện tượng học: cho ta (für
uns), tức đối với nhà hiện tượng học nhìn lại toàn bộ tiến trình đã qua,
thì tri giác cũng chỉ là một tiến trình biện chứng: nó là kết quả của tiến
trình xác tín cảm tính trước đây. Nói khác đi, “cho ta”, “cái này cá biệt”
đã bị “vượt qua”, “thuộc về quá khứ”. Trong khi đó, đối với ý thức hiện
tượng học đang chìm đắm trong diễn trình kinh nghiệm (tức: “tự
mình”/“an sich”), thì cái này cá biệt “đã bị thủ tiêu, bị vượt bỏ”
(aufgehoben) (mà nó không biết tại sao) và đối tượng bây giờ là đối
tượng mới mẻ đối với nó. Do đó, Hegel rất thường dùng thuật ngữ “an
sich oder für uns” (“tự-mình” hay “cho-ta”) để chỉ cái gì mới là tiềm
năng và không-được bản thân cái ấy nhận biết nhưng lại được “ta”
[triết gia hay người đứng ngoài quan sát tiến trình] nhận biết. (Xem:
Chú giải dẫn nhập 4.2).
(205)“Cho ta”hay là “tự-mình” (tự nơi bản thân cấp độ nhận thức), cái
phổ biến là Bản thể chung của sự vật lẫn của chủ thể tri giác; tuy nhiên,
chủ thể tri giác là tiến trình vận động lãnh hội đối tượng, còn đối tượng
cũng là tiến trình vận động này nhưng như là cái được lãnh hội.