Khi mới v ào tuổi hai m ươi, đang là sinh viên trư ờng Đại học Ngoại giao, Hồ Anh Thái
đã là tác gi ả văn xuôi có truy ện ngắn đăng đều trên các báo Văn Ngh ệ, Văn nghệ Quân đội.
Anh bắt đầu cuộc đời văn ch ương từ đầu những năm 80, thế kỷ XX, với một bút pháp thực sự
mới mẻ. Bút pháp mới mẻ của Hồ Anh Thái có được thật tự nhiên, như do trong h ồn trong
máu, trong tư duy của anh nó đã vậy. Không giống nh ư trường hợp những năm sau này, m ột số
nhà văn săn tìm hình th ức tân kỳ, để văn mình được “mới hơn”. Những truyện ngắn ban đầu
của Hồ Anh Thái, ti êu bi ểu l à Chàng trai ở bến đợi xe, Nói bằng lời của mình, M ảnh vỡ của
đànông. đã được bạn đọc chú ý bởi bút pháp mới v à bởi cuộc sống trong truyện cũng thật
tươi, m ới. Do duyên may, chúng tôi trở thành bạn văn khi Hồ Anh Thái đang l à sinh viên, m ột
tình bạn có vẻ l à vong niên vì Thái kém tôi h ơn mười tuổi, lại như tình b ạn cùng trang l ứa, bởi
chúng tôi trò chuy ện tâm sự không hề có sự gián cách g ì. H ồi đó, Hồ Anh Thái có phần gầy
yếu so với những thanh ni ên cùng tu ổi, tính tình khiêm nh ường, nhưng rất chịu nghĩ ngợi về
chuyện đời, và đọc rất nhiều, như m ột con mọt sách. Về l àm việc ở Bộ Ngoại giao một thời
gian ngắn, Hồ Anh Thái đi bộ đội nghĩa vụ quân sự. Cũng dịp n ày, tập truyện ngắn Chàng trai
ở bến đợi xe được xuất bản. Trong thời gian l àm nghĩa vụ quân sự, v ào tháng 11-1985, Hồ Anh
Thái đã vi ết cuốn tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo, đ ề cập những chấn th ương về thể chất v à
tinh th ần của những ng ười phụ nữ đi qua cuộc chiến tranh, trở th ành quá l ứa, lỡ thì. Sau chi ến
tranh, nh ững nữ cựu chiến binh đó đến l àm vi ệc trong một lâm trường trên đảo Cát Bạc. Đây l à
câu chuy ện về cuộc chiến đấu tiếp tục của họ
7 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện tượng văn chương Hồ Anh Thái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hiện tượng văn chương
Hồ Anh Thái
Khi mới vào tuổi hai mươi, đang là sinh viên trường Đại học Ngoại giao, Hồ Anh Thái
đã là tác giả văn xuôi có truyện ngắn đăng đều trên các báo Văn Nghệ, Văn nghệ Quân đội...
Anh bắt đầu cuộc đời văn chương từ đầu những năm 80, thế kỷ XX, với một bút pháp thực sự
mới mẻ. Bút pháp mới mẻ của Hồ Anh Thái có được thật tự nhiên, như do trong hồn trong
máu, trong tư duy của anh nó đã vậy. Không giống như trường hợp những năm sau này, một số
nhà văn săn tìm hình thức tân kỳ, để văn mình được “mới hơn”. Những truyện ngắn ban đầu
của Hồ Anh Thái, tiêu biểu là Chàng trai ở bến đợi xe, Nói bằng lời của mình, Mảnh vỡ của
đàn ông... đã được bạn đọc chú ý bởi bút pháp mới và bởi cuộc sống trong truyện cũng thật
tươi, mới. Do duyên may, chúng tôi trở thành bạn văn khi Hồ Anh Thái đang là sinh viên, một
tình bạn có vẻ là vong niên vì Thái kém tôi hơn mười tuổi, lại như tình bạn cùng trang lứa, bởi
chúng tôi trò chuyện tâm sự không hề có sự gián cách gì. Hồi đó, Hồ Anh Thái có phần gầy
yếu so với những thanh niên cùng tuổi, tính tình khiêm nhường, nhưng rất chịu nghĩ ngợi về
chuyện đời, và đọc rất nhiều, như một con mọt sách. Về làm việc ở Bộ Ngoại giao một thời
gian ngắn, Hồ Anh Thái đi bộ đội nghĩa vụ quân sự. Cũng dịp này, tập truyện ngắn Chàng trai
ở bến đợi xe được xuất bản. Trong thời gian làm nghĩa vụ quân sự, vào tháng 11-1985, Hồ Anh
Thái đã viết cuốn tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo, đề cập những chấn thương về thể chất và
tinh thần của những người phụ nữ đi qua cuộc chiến tranh, trở thành quá lứa, lỡ thì. Sau chiến
tranh, những nữ cựu chiến binh đó đến làm việc trong một lâm trường trên đảo Cát Bạc. Đây là
câu chuyện về cuộc chiến đấu tiếp tục của họ, hoặc là đau đớn chống lại những ham muốn
nhục dục thường tình, hoặc là nhẫn nhục thèm khát có một chút con làm nơi nương tựa lúc
cuối đời. Dù là nhà văn rất trẻ, nhưng anh đã đặt vấn đề về tình dục, về bản năng con người và
nhu cầu làm tròn thiên chức người phụ nữ. Đặc biệt, đề tài của tiểu thuyết thực sự táo bạo, là,
cái giá mà những nữ cựu chiến binh phải trả trong cuộc chiến tranh chống Mỹ thật ghê gớm.
Năm 1986, Hồ Anh Thái lại xuất bản tiểu thuyết Vẫn chưa tới mùa đông. Và năm này, anh
cũng viết xong thiên tiểu thuyếtNgười và xe chạy dưới ánh trăng. Sức viết của anh thật dồi dào,
rất hiếm thấy trong số các nhà văn Việt Nam thời ấy và cả hiện nay. Bây giờ nhìn nhận lại hiện
tượng Hồ Anh Thái, chúng tôi thấy, ngay từ khi bắt đầu sáng tác, anh đã thể hiện tính chuyên
nghiệp trong việc viết văn. Điều này, sang đầu thế kỷ XXI hầu hết các nhà văn nước ta còn
chưa ý thức được.
Năm 1987, tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng được xuất bản. Thời gian này
chúng tôi có điều kiện gặp nhau nhiều, và tôi rất mừng cho Hồ Anh Thái. Trong những
truyện ngắn đầu tay, Hồ Anh Thái viết về đời sống tinh thần của những thanh niên, sinh viên
cùng trang lứa với những khao khát về cái đẹp, vươn tới cái lương thiện. Đến tiểu
thuyết Người đàn bà trên đảo, nhà văn hai mươi lăm tuổi đã viết về một vấn đề xã hội khá
đặc biệt ở nước ta sau chiến tranh. Còn trong Người và xe chạy dưới ánh trăng, Hồ Anh Thái
hai mươi sáu tuổi thể hiện một ý tưởng khá sâu sắc, rằng, con người ta đi vào đời với đôi bàn
tay trắng, sạch sẽ và lương thiện. Nhưng rồi càng đi càng phải giữ mình trong sạch, mà đời cứ
luôn muốn nhấn người ta vào sắc dục, vào những chỗ không được lương thiện lắm. Cuộc
sống xã hội thời gian đó với những xô dập ghê gớm. Các nhân vật trong tiểu thuyết đều còn
trẻ, Toàn, Hiệp, Trang, Minh... mỗi người một số phận, bị cuộc sống xô dạt về những nẻo
khác nhau và họ phải vật lộn với số phận trên con đường của đời mình. Với Người và xe chạy
dưới ánh trăng, Hồ Anh Thái đã khẳng định được một vị trí trong đời sống văn chương Việt
Nam. Anh đã có ý thức trách nhiệm của một nhà văn, và là một nhà văn có tài. Điều đó thể
hiện qua cách tạo dựng những nhân vật có cá tính đa dạng, có nhân cách phức tạp, nhất là
nhân vật Toàn; thể hiện trong cách nêu vấn đề khá nhân bản: hết chiến tranh tưởng chừng con
người không còn bị mất mát gì nữa, vậy mà chúng ta vẫn phải mất mát rất nhiều; và, cũng thể
hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng, đa cảm, có sức diễn đạt thật sống động của nhà
văn.
Sinh năm 1960, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ lan ra miền Bắc, Hồ Anh Thái lên
năm tuổi, nên được đưa đi sơ tán ở nông thôn. Chiến tranh nhanh chóng mở rộng tới các làng
quê, nơi dự trữ rất nhiều con người và vật lực để cung cấp cho mặt trận. Vậy là, ngay từ thời
thơ ấu, Hồ Anh Thái đã biết về nông thôn, đã chứng kiến máy bay Mỹ dội bom xuống xóm
làng, thấy lửa cháy và những cái chết. Những ấn tượng đầu đời này thực sự sâu đối với một
người về sau trở thành nhà văn. Cùng những ấn tượng như vậy, theo thời gian, những câu
chuyện kể, bao cuộc gặp gỡ những người từng ra mặt trận, trực tiếp thấu hiểu những mất mát
hy sinh của các gia đình họ hàng, thân quen, Hồ Anh Thái hiểu, cuộc chiến tranh thật khốc
liệt. Nó đã khiến rất nhiều người bị thương tổn, bị chết, bị mất tích; nhưng nó cũng đào luyện,
thử thách tất cả mọi người Việt Nam. Hồ Anh Thái có thói quen đọc rất nhiều ngay từ thời
niên thiếu, nên anh sớm hiểu về cuộc chiến tranh trên quê hương mình ở phương diện văn
hóa xã hội. Anh viết văn vào giai đoạn mà hầu hết các nhà văn Việt Nam đang hăng hái viết
về cuộc chiến tranh. Chúng tôi nhớ, một nhà văn mình rất quý trọng là Triệu Bôn, đến cuối
thế kỷ XX vẫn chuyên tâm viết về chiến tranh. Như anh nói, đêm đêm trên trang viết của anh,
súng vẫn nổ, người Việt Nam vẫn đánh giặc. Nhiều nhà văn trẻ cùng lứa tuổi Hồ Anh Thái
cũng rất hăng hái viết về chiến tranh, viết về chiến tích của cha, anh. Đó là xu thế chung của
nền văn chương hiện thực ở nước ta nửa cuối thế kỷ XX. Với Hồ Anh Thái, những ám ảnh
về cuộc chiến tranh chống Mỹ khiến anh đã viết về chiến tranh, như trường hợp tiểu
thuyết Người đàn bà trên đảo, rồi năm 1989 anh lại viết tiểu thuyết Trong sương hồng hiện
ra. Nhưng, Hồ Anh Thái kể lại những câu chuyện chiến tranh nhằm đặt ra những vấn đề bức
thiết của cuộc sống những năm tám mươi, thế kỷ XX. Như Người đàn bà trên đảo mà chúng
tôi nói tới ở trên, là vấn đề đạo đức, cả trong ứng xử xã hội cả về mặt luật pháp, đối với thân
phận những nữ cựu chiến binh đã phải trả một cái giá khủng khiếp cho cuộc chiến tranh
chống Mỹ. Còn tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra, nhà văn từ cuộc sống hiện tại nhận
thức lại quá khứ. Cuộc sống thời chiến, có cả cái tốt, cả cái xấu. Xã hội con người muôn đời
đã như vậy. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Tân, năm 1987 mới mười bảy tuổi, do sự cố
nhà đổ, bị điện giật, anh bất tỉnh. Trong cơn bất tỉnh, Tân (như quan niệm dân gian là hồn của
Tân) đã trôi dạt về hai mươi năm trước, là năm 1967, khi chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền
Bắc đến độ ác liệt. Tân trở lại nơi cha mẹ anh sống ngày xưa, chứng kiến được cả buổi đầu
cha mẹ anh tìm đến với nhau. Anh được chứng kiến những cuộc không kích dữ dội của máy
bay Mỹ. Anh cũng thấy có những lúc thật bình yên giữa cuộc chiến, người ta vẫn làm ăn, đàn
hát và yêu nhau. Tân, hay là hồn của một người có tri thức ở năm 1987, chính là phân thân
của nhà văn, đã cảm phục những con người dũng cảm như Đô, như Trinh, và cũng hiểu rằng
cùng sống bên họ có không ít những kẻ giả dối, hèn nhát và trục lợi, điển hình là ông Tựu
nhỏ nhen và háo danh, là bà ngoại của Tân, một cán bộ cách mạng mà đầy toan tính, cơ hội
và rất khinh người Xã hội con người muôn đời vẫn như vậy. Qua tiểu thuyếtTrong sương
hồng hiện ra, ta thấy Hồ Anh Thái nhìn đời thoải mái mà dung thứ. Anh nhìn rõ, con người
vốn rất đa dạng về nhân cách, nên không kỳ vọng về con người, nhưng bao giờ anh cũng trân
trọng con người với tất cả sự phức tạp trong họ. Bây giờ nhìn nhận hiện tượng Hồ Anh Thái,
chúng tôi thấy rất rõ, anh là nhà văn của một thời đại văn chương mới, thời đại không làm
văn chương để tuyên truyền chính sách, mà coi văn chương là mục đích của văn hóa. Bằng
sự hiểu biết có chiều sâu về lịch sử xã hội, anh viết về cuộc sống tươi nguyên và đang cuồn
cuộn chảy trước mắt. Thấu hiểu văn chương truyền thống, nhưng anh không phụ thuộc nó.
Là nhà văn của thời đại văn chương mới không theo nghĩa Hồ Anh Thái được viết trong thời
kỳ đổi mới kinh tế xã hội ở nước ta, mà đơn giản, anh là một tài năng mới không giống các
tài năng văn chương cũ. Năm 2001, nhà văn Lê Minh Khuê có nhận xét về tác phẩm Người
và xe chạy dưới ánh trăng Hồ Anh Thái viết từ 1986: “Có lẽ ngay từ ngày ấy, tác giả này đã
ý thức rằng tác phẩm văn học muốn hòa nhập được với dòng văn học chảy ào ạt ngoài kia
của thế giới thì đừng có quá lệ thuộc vào hiện thực giản đơn”. Những năm tiếp theo, với lao
động sáng tạo liên tục và mang tính chuyên nghiệp, anh đã thể hiện bản lĩnh của một nhà văn
hàng đầu ở Việt Nam trong thời đại văn chương nước ta hội nhập với văn chương thế giới.
Nền văn chương Việt Nam có tới ba, bốn thập kỷ sa vào lối văn biểu dương, minh
họa, tạo nên một thứ văn chương hiện thực đơn giản. Thế hệ các nhà văn viết từ thời chiến
tranh chống Mỹ, cả các nhà văn trẻ viết sau chiến tranh một chút, hầu hết viết theo lối hiện
thực có phần đơn giản. Nhưng, những năm tám mươi, thế kỷ hai mươi, có một số tài năng đã
làm cuộc đổi mới văn chương. Trong đó, Ma Văn Kháng là nhà văn đổi mới sớm nhất trong
tư tưởng văn chương. Rồi Nguyễn Huy Thiệp đã đem đến cho văn chương truyền thống sức
cuốn hút mới bởi cách nhìn nhận hiện thực sắc sảo. Nguyễn Dậu tái hồi văn đàn, cũng làm
cho văn chương tả thực sinh động hơn, nhiều thương cảm hơn. Nguyễn Khắc Trường, khi
viết về nông thôn, cũng khiến văn chương tả thực truyền thống có được một chiều sâu mới về
văn hóa Hồ Anh Thái là nhà văn không phụ thuộc gì văn chương tả thực hay văn chương
lãng mạn mà các tên tuổi lớn như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Thạch
Lam đã tạo nên nửa đầu thế kỷ XX. Có thể nói, anh là người chuẩn bị tương đối đầy đủ về
mặt văn hóa, trong đó có cả những giá trị văn chương (không chỉ văn chương nước ta mà cả
văn chương của nhiều nước trên thế giới) đã trở thành văn hóa. Và càng dấn thân trên con
đường văn chương, nhà văn càng phải hiểu biết sâu hơn về văn hóa. Hồ Anh Thái là nhà văn
của cuộc sống đang cuồn cuộn trước mắt. Anh khám phá những vỉa, những tầng của nó và
viết về những vấn đề của nó. Lúc mới cầm bút viết văn Hồ Anh Thái đã vậy. Sau này, có dịp
sống trong thực tế cuộc sống Ấn Độ và thấu hiểu nền văn hóa của đất nước này, anh cũng
như vậy. Cho tới gần đây anh viết thiên tiểu thuyết lịch sử Đức Phật, nàng Savitri và tôi (xuất
bản năm 2007), cũng có năm chương viết về Tôi, người kể chuyện, nhà văn hóa, và bảy
chương về nàng Savitri với phân thân của nàng là Kumari, Nữ thần Đồng trinh đã giải nghệ
đang là hướng dẫn viên du lịch. Đó là những con người của cuộc sống đương đại, và bởi vậy,
tác phẩm chứa đựng những tư tưởng cuộc sống hiện tại.
Năm 1988 Hồ Anh Thái sang nghiên cứu và làm việc ở Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn
Độ. Và anh sống tại đất nước này sáu năm. Đây là một bước quan trọng trên đường đời nhà
văn. Ấn Độ là xứ sở của những tư tưởng rất minh triết và hết sức siêu hình, là quê hương của
những trí tuệ hiền minh bậc nhất của nhân loại từ cổ đại đến cận - hiện đại, như Phật Thích
Ca, M. Gandhi, R. Tagore. Đây là cái nôi sinh ra nhiều truyền thuyết và những pho sử thi vĩ
đại, là quê hương của nền văn hóa Phật giáo với những bộ kinh điển vừa sâu sắc vừa huyền
bí và đầy mê hoặc. Hồ Anh Thái đến đây vào thời kỳ cao trào của cuộc hội nhập thế kỷ giữa
nền văn hóa Tây phương và nền văn hóa cổ truyền của xứ sở. Anh ngưỡng mộ nền văn minh
Ấn Độ vĩ đại. Nhưng, anh cũng ngỡ ngàng trước những tấm sari và nhiều con người đói rách
trên xứ sở này. Lập tức anh có một tình yêu lớn dành cho Ấn Độ với tất cả sự phức tạp có
trong nó. Bởi vậy, anh muốn khám phá nó. Anh dành thời gian đi tới rất nhiều vùng quê trên
đất nước này, tới những đền chùa danh tiếng, rong ruổi hầu khắp miền Bắc và Trung Ấn,
những nơi thuộc Vương quốc Phật cổ đại. Đây là cuộc khám phá văn hóa Ấn Độ trong đời
sống Ấn Độ, khám phá kiến trúc của tôn giáo này cùng những kinh điển Phật học Ở tuổi
ba mươi Hồ Anh Thái tốt nghiệp Học viện Hindi của Ấn Độ, được coi là “nhà Ấn Độ học”,
và làm thư ký cho ngài đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Ấn Độ. Trong một đêm thơ
Hindi, nơi hội ngộ của các nhà thơ tiêu biểu viết bằng tiếng Hindi, Hồ Anh Thái đã đọc năm
bài thơ mà anh dịch của các tác giả Việt Nam. Cả hội trường đã vỗ tay không ngớt cùng
nhiều tiếng reo hò đòi đọc lại. Người ta hết sức ngạc nhiên, bởi một người Việt Nam lại
thông thạo tiếng Hindi của Ấn Độ đến thế!
Nhưng, ở đây chúng tôi đang viết về nhà văn Hồ Anh Thái. Trở thành nhà Ấn Độ học
cũng chỉ để anh làm nhà văn tốt hơn. Nghiên cứu văn hóa Ấn Độ, Hồ Anh Thái đã hiểu rằng,
Ấn Độ kiêu hãnh đã thấm mệt sau biết bao năm tìm kiếm những chân lý siêu hình, và có lẽ
do vậy, đã không quan tâm lắm đến những vấn đề về con người. Thêm nữa, trên hàng ngàn
dặm đường cát bụi mà Hồ Anh Thái từng qua, có biết bao mảnh đời người Ấn phiêu dạt
Với tình yêu lớn dành cho Ấn Độ, anh viết, đầu tiên là những truyện ngắn. Và, những truyện
ngắn đó, còn một thời gian không ngắn nữa mới thành sách in ở Việt Nam, đã lần lượt được
bạn đọc nhiều nước rất hoan nghênh trên báo chí Anh ngữ tại Ấn Độ, và qua bản dịch ở
Pháp, ở Mỹ. Đặc biệt tại Ấn Độ, như K. Pandey, tiến sĩ văn học người Ấn, đã coi đó là
“những mũi kim châm cứu Á Đông đã điểm trúng huyệt tính cách Ấn Độ”, khiến họ đã “nhìn
thấy đúng cái bóng đang quẩn dưới chân mình”.