Sự đa dạng và nhiều cấp độ về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm nói chung và tội kinh doanh trái phép nói riêng đòi hỏi phải có nhiều
loại hình phạt với những mức độ nghiêm khắc khác nhau. Mức độ nghiêm khắc
của hình phạt phụ thuộc vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm
tội. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào mỗi giai đoạn lịch sử, với những điều kiện kinh tế -xã hội cụ thể khác nhau mà việc đánh giá về tính chất và mức độ nguy hiểm đối
với mỗi hành vi cụ thể cũng như việc quy định tính chất trừng trị và chính sách áp
dụng cũng khác nhau.
Theo BLHS năm 1985, người phạm tội kinh doanh trái phép có thể bị áp
dụng một trong các hình phạt chính sau: Hình phạt cải tạo không giam giữ; hình
phạt tù có thời hạn, kèm theo hình phạt chính có thể áp dụng một hoặc nhiều hình
phạt bổ sung sau: Hình phạt cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc
công việc nhất định; hình phạt tịch thu tài sản; hình phạt tiền. Đến BLHS năm
1999, hình phạt đối với tội kinh doanh trái phép đã có những đổi mới nhất định.
Hình phạt chính thêm hình phạt tiền, hình phạt bổ sung chỉ giữ lại hình phạt tiền.
Theo BLHS năm 1999 người phạm tội kinh doanh trái phép có thể bị áp dụng một
trong ba hình phạt chính là phạt tiền; cải tạo không giam giữ; tù có thời hạn và một
hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Đối với những người phạm tội kinh doanh trái
phép, toà án chỉ được áp dụng một trong các hình phạt chính đã nêu kèm theo hình
phạt chính có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Toà án không được áp
dụng hình phạt chính nào khác trừ trường hợp “chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn” theo Điều 47 BLHS (trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của Bộ luật).
9 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình phạt đối với tội kinh doanh trái phép trong bộ luật hình sự năm 1999, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hình phạt đối với tội kinh doanh trái phép trong
bộ luật hình sự năm 1999
1. Sự đa dạng và nhiều cấp độ về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm nói chung và tội kinh doanh trái phép nói riêng đòi hỏi phải có nhiều
loại hình phạt với những mức độ nghiêm khắc khác nhau. Mức độ nghiêm khắc
của hình phạt phụ thuộc vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm
tội. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào mỗi giai đoạn lịch sử, với những điều kiện kinh tế -
xã hội cụ thể khác nhau mà việc đánh giá về tính chất và mức độ nguy hiểm đối
với mỗi hành vi cụ thể cũng như việc quy định tính chất trừng trị và chính sách áp
dụng cũng khác nhau.
Theo BLHS năm 1985, người phạm tội kinh doanh trái phép có thể bị áp
dụng một trong các hình phạt chính sau: Hình phạt cải tạo không giam giữ; hình
phạt tù có thời hạn, kèm theo hình phạt chính có thể áp dụng một hoặc nhiều hình
phạt bổ sung sau: Hình phạt cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc
công việc nhất định; hình phạt tịch thu tài sản; hình phạt tiền. Đến BLHS năm
1999, hình phạt đối với tội kinh doanh trái phép đã có những đổi mới nhất định.
Hình phạt chính thêm hình phạt tiền, hình phạt bổ sung chỉ giữ lại hình phạt tiền.
Theo BLHS năm 1999 người phạm tội kinh doanh trái phép có thể bị áp dụng một
trong ba hình phạt chính là phạt tiền; cải tạo không giam giữ; tù có thời hạn và một
hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Đối với những người phạm tội kinh doanh trái
phép, toà án chỉ được áp dụng một trong các hình phạt chính đã nêu kèm theo hình
phạt chính có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Toà án không được áp
dụng hình phạt chính nào khác trừ trường hợp “chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn” theo Điều 47 BLHS (trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của Bộ luật).
Theo BLHS năm 1999, chính sách xử lí đối với các tội xâm phạm trật tự
quản lí kinh tế cũng như đối với tội kinh doanh trái phép có thay đổi theo hướng
giảm tối đa các hình phạt tù. Trong BLHS này, phạm vi áp dụng hình phạt tù được
thu hẹp, phạm vi áp dụng các hình phạt tiền là hình phạt chính cũng như các hình
phạt khác không phải tù được mở rộng.
Chính sách xử lí này một mặt đáp ứng được mục đích chung của hình phạt là
trừng trị và giáo dục, mặt khác đã xuất phát từ “tính chất kinh tế” của các tội phạm
này nhằm đạt được hiệu quả cao trong áp dụng pháp luật .
2. Đối với người phạm tội kinh doanh trái phép hình phạt tiền có thể được áp
dụng là hình phạt chính hoặc là hình phạt bổ sung. Quy định này hoàn toàn khác
quy định về hình phạt tiền trong BLHS của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Theo
Bộ luật này, hình phạt tiền chỉ được áp dụng với tư cách là hình phạt bổ sung. Điều
đó không chỉ quy định đối với tội phạm được quy định tại Điều 225 về hành vi
kinh doanh bất hợp pháp mà đối với mọi tội phạm nói chung.(1)
Khi được áp dụng là hình phạt chính thì người phạm tội kinh doanh trái phép
có thể sẽ bị phạt từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Mức phạt cụ thể được quyết
định tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm đã thực hiện
đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội kinh doanh trái phép
cũng như sự biến động của giá cả (Điều 30). So sánh với các tội phạm khác thuộc
Chương các tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế thì mức quy định này với người
phạm tội kinh doanh trái phép cũng khá cao tương tự mức phạt tiền quy định với
tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm (Điều 155), tội đầu cơ (Điều
160), tội lừa dối khách hàng (Điều 162), tội làm tem giả, vé giả; tội buôn bán tem
giả, vé giả (Điều 164) và cao hơn mức phạt tiền quy định đối với tội vận chuyển
trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (Điều 154). Tuy nhiên, mức phạt tiền được
quy định đối với tội kinh doanh trái phép thấp hơn mức phạt tiền đối với tội buôn
lậu (Điều 153), tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân
bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158). Các
tội phạm này có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn nên khi quy định hình phạt tiền
cũng với mức phạt nghiêm khắc hơn như đều có mức phạt từ 10 triệu đồng đến 100
triệu đồng.
Cách quy định mức phạt tiền đối với tội kinh doanh trái phép cũng giống
như các tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm (Điều 155), tội đầu
cơ (Điều 160) là ấn định khung của mức tiền phạt mà không phải là tính theo giá
trị hàng phạm pháp. Thực tế, người phạm tội kinh doanh trái phép diễn ra trên
nhiều lĩnh vực như sản xuất, buôn bán và dịch vụ nên việc xác định hàng phạm
pháp gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, về giá trị hàng phạm pháp cũng có nhiều ý
kiến khác nhau như tính theo tổng số hàng của tất cả các lần phạm pháp hay chỉ
tính theo số hàng các lần bắt được hoặc số hàng phạm pháp khi bị phát hiện. Do
đó, để phù hợp với tội phạm này cũng như để thuận lợi trong việc áp dụng mà mục
đích hình phạt vẫn đạt được nên đối với tội kinh doanh trái phép tại Điều 159,
BLHS năm 1999 đã không quy định phạt theo số lần hàng phạm pháp mà theo một
mức tiền nhất định. Cách quy định này không chỉ đối với phạt tiền là hình phạt
chính mà cả với trường hợp là hình phạt bổ sung (có thể bị phạt từ 3 triệu đồng đến
30 triệu đồng).
Khác với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đã quy định phương thức thi
hành hình phạt tiền đối với cả hình phạt chính và bổ sung (khoản 3, Điều 30).
Người phạm tội kinh doanh trái phép, có thể nộp tiền phạt một lần hoặc nhiều lần
theo quyết định của toà án. Quy định này một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho
người phạm tội kinh doanh trái phép có khả năng thi hành bản án, mặt khác cũng
định rõ trách nhiệm của toà án trong việc cân nhắc, xem xét từng trường hợp phạm
tội cụ thể để ấn định mức tiền, thời gian và phương thức thi hành hình phạt này cho
phù hợp.
Trong trường hợp đồng phạm, xuất phát từ nguyên tắc cá thể hoá hình phạt,
phạt tiền được tuyên cụ thể cho từng bị cáo trên cơ sở xem xét vai trò và trách
nhiệm của từng người trong vụ đồng phạm đồng thời có xem xét đến tình hình tài
sản (hoàn cảnh kinh tế) cụ thể cũng như các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của
mỗi người. Trong trường hợp là hình phạt bổ sung thì phạt tiền chỉ có thể được áp
dụng với người phạm tội kinh doanh trái phép từ đủ 18 tuổi trở lên (Điều 69).
Người phạm tội kinh doanh trái phép bị áp dụng hình phạt tiền, ngoài việc bị
tước bỏ lợi ích kinh tế còn phải gánh chịu hậu quả pháp lí bất lợi là án tích trong
thời hạn một năm (so với quy định tại BLHS năm 1985 thì thời hạn này đã giảm
xuống còn 1/3) (Điều 64).
3. Hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt được quy định khá phổ
biến đối với các tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế. Trong hệ thống hình phạt thì
đây là loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nhưng lại nặng hơn hình phạt
cảnh cáo và hình phạt tiền, nó được áp dụng với người phạm tội kinh doanh trái
phép đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng nếu xét thấy
không cần thiết phải cách li họ khỏi xã hội mà mục đích hình phạt vẫn đạt được
(Điều 31). Hình phạt này là sự cụ thể hoá chính sách hình sự của Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay đã được quy định tại khoản 3 Điều 3 BLHS năm 1999. Như
vậy, người phạm tội kinh doanh trái phép có thể được áp dụng hình phạt cải tạo
không giam giữ nếu có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Người phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ
ràng. Đây là điều kiện đầu tiên để có thể xem xét, cân nhắc việc giao người bị kết
án về tội kinh doanh trái phép cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc
chính quyền địa phương nơi người đó cư trú, sinh sống để bảo đảm việc theo dõi,
giám sát, giáo dục đối với người bị kết án.
- Xét thấy không cần thiết phải cách li người phạm tội kinh doanh trái phép
khỏi xã hội. Khi xem xét điều kiện thứ hai này, toà án phải phân tích, đánh giá
những đặc điểm thuộc về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
(Điều 46) cũng như xem xét toàn diện những tình tiết có ảnh hưởng đến tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà người phạm tội kinh doanh trái
phép đã thực hiện.
Khi người phạm tội kinh doanh trái phép được áp dụng hình phạt cải tạo
không giam giữ thì trong bản án toà án tuyên giao họ cho cơ quan, tổ chức nơi họ
làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi họ sinh sống, cư trú. Tại đây bị cáo phải
gánh chịu những nghĩa vụ nhất định. Theo Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày
30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành hình phạt cải tạo không giam
giữ, ngoài những nghĩa vụ mang tính chất chung như mọi công dân thì người phạm
tội kinh doanh trái phép được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ có những
nghĩa vụ hoàn toàn mang tính riêng biệt, như:
- Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với người trực tiếp giám sát, giáo
dục về tình hình rèn luyện, tu dưỡng của mình; trường hợp vắng mặt trên 30 ngày
thì bản báo cáo phải có nhận xét của cảnh sát khu vực hoặc công an xã nơi người
đó đến tạm trú;
- Ba tháng một lần phải tự kiểm điểm về kết quả thực hiện bản cam kết của
mình trước tập thể nơi mình làm việc, học tập hoặc cư trú;
- Phải có mặt khi cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục yêu cầu;
- Phải xin phép khi đi khỏi nơi cư trú;
- Thời gian chấp hành hình phạt không được tính vào thời gian xem xét nâng
lương, phong quân hàm theo niên hạn (đối với người bị kết án là cán bộ, công
chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương)
Trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, người phạm tội
kinh doanh trái phép còn bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung
quỹ Nhà nước. Nghĩa là việc khấu trừ thu nhập đối với người kinh doanh trái phép
là bắt buộc, hoàn toàn khác quy định trước đây tại BLHS năm 1985. Toà án căn cứ
vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, thu nhập
thực tế, tình hình tài sản cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà quyết
định mức bị khấu trừ cụ thể. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt như hoàn cảnh
gia đình đông con, khó khăn mà bản thân người bị kết án là lao động chính hoặc có
thu nhập nhưng không đáng kể thì toà án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập
nhưng phải ghi rõ lí do trong bản án. Đối với người chưa thành niên phạm tội kinh
doanh trái phép mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì không bị khấu trừ
thu nhập (Điều 73).
Thực tế trong thời gian qua các toà án ít áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ đối với người phạm tội kinh doanh trái phép. Cụ thể: Năm 1998 số người
phạm tội kinh doanh trái phép bị áp dụng hình phạt này chỉ chiếm 2,8% (2 bị
cáo/71 bị cáo), năm 1999 chiếm 2,7% (1 bị cáo/39 bị cáo), năm 2000 tỉ lệ này có
khá hơn, chiếm 16% (6 bị cáo/37 bị cáo).(2) Theo chúng tôi, hình phạt cải tạo
không giam giữ cần được áp dụng rộng rãi và phổ biến đến với những trường hợp
phạm tội ít nghiêm trọng (không chỉ riêng tội kinh doanh trái phép mà với nhiều tội
phạm khác) nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong
việc giáo dục, cải tạo những người phạm tội chưa đến mức phải xử phạt tù, đề cao
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương và gia đình có
người phạm tội trong việc giám sát, giáo dục các thành viên của mình nếu họ có
hành vi vi phạm pháp luật.
4. Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt có tính chất phổ biến và thông dụng
nhất được BLHS năm 1985 cũng như BLHS năm 1999 quy định ở tất cả các điều
luật. So với hình phạt cải tạo không giam giữ thì hình phạt tù có thời hạn có nội
dung cưỡng chế nghiêm khắc hơn. Đối với người phạm tội kinh doanh trái phép
chỉ có thể áp dụng hình phạt này khi có một trong các tình tiết được quy định tại
cấu thành tăng nặng (khoản 2 Điều 159 BLHS năm 1999). Tuỳ theo tính chất và
mức độ vi phạm mà người phạm tội kinh doanh trái phép bị phạt tù từ 3 tháng đến
2 năm. So với tội kinh doanh bất hợp pháp (có dấu hiệu tương tự tội kinh doanh
trái phép) được quy định tại Điều 171 BLHS năm 1996 của Liên bang Nga thì tội
kinh doanh trái phép trong BLHS Việt Nam có mức phạt tù thấp hơn. Theo khoản
2 Điều 171 BLHS năm 1996 của Liên bang Nga thì mức phạt tù về tội kinh doanh
bất hợp pháp có thể tới 4 năm.(3)
Quy định hình phạt tù đối với người phạm tội kinh doanh trái phép tại Điều
159, BLHS năm 1999 có khác so với các quy định trước đây. BLHS năm 1985 quy
định hình phạt tù đối với tội kinh doanh trái phép ở cả khoản 1 và khoản 2 Điều
168. Trong khi đó BLHS năm 1999 chỉ quy định hình phạt tù đối với tội này ở
khoản 2 Điều 159. Mặt khác, mức phạt tù đối với tội này theo quy định của BLHS
năm 1999 cũng thấp hơn, chỉ từ 3 tháng đến 2 năm, bằng mức quy định tại khoản 1
Điều 168 BLHS năm 1985 (còn khoản 2 quy định mức phạt tù tới 7 năm). Quy
định mức phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm cũng như chỉ quy định có hình phạt tù trong
cấu thành tăng nặng đối với tội kinh doanh trái phép tại Điều 169 BLHS năm 1999
là thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với tội phạm này trong điều
kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Thực tiễn xét xử trong thời gian qua cho thấy, hình phạt tù có thời hạn áp
dụng với người phạm tội kinh doanh trái phép chiếm tỉ lệ khá cao. Trong 11 năm
(từ 1991- 2001) trung bình mỗi năm hình phạt này được áp dụng đối với người
phạm tội kinh doanh trái phép chiếm 47,3% so với các hình phạt khác như phạt
tiền, cải tạo không giam giữ. Theo chúng tôi, đối với người phạm tội kinh doanh
trái phép chỉ vi phạm về mặt thủ tục khi ra kinh doanh còn ngành nghề kinh doanh
không thuộc danh mục ngành nghề bị Nhà nước cấm nên tăng cường áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt phạt tiền mà hạn chế áp dụng hình phạt tù.
Bên cạnh hình phạt tù, biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án
treo) áp dụng cũng chiếm tỉ lệ cao. Thời gian 11 năm (từ 1991- 2001) trung bình
hàng năm án treo áp dụng với người phạm tội kinh doanh trái phép chiếm tới
45,7%. Tình hình này, một phần do hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt
mới, lại thiếu biện pháp tổ chức thực hiện nên các toà án còn lúng túng trong việc
vận dụng, một phần do thói quen, bởi án treo có tính truyền thống và trên thực tế
cũng phát huy được tác dụng nhất định, song cũng có một phần không nhỏ là do
tiêu cực.
Tóm lại, việc xử lí nghiêm minh đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đối
với các hành vi kinh doanh trái phép trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay sẽ góp phần tạo hành lang pháp lí an toàn bảo đảm cho các hoạt động
kinh doanh năng động, tích cực, sáng tạo phát triển. Nếu xử lí quá nhẹ sẽ không đạt
được mục đích của hình phạt, ngược lại, nếu xử lí oan hoặc quá nặng sẽ kìm hãm
việc kinh doanh, là trái với thực tế, với tư tưởng mà các Đại hội Đảng đã đề ra./.