Hình thành con người nhân văn như một yêu cầu của giáo dục phổ thông

TÓM TẮT Muốn đổi mới giáo dục trước hết phải có triết lí giáo dục. Một trong những nội dung quan trọng của triết lí giáo dục Việt Nam hiện nay là làm sao hình thành ở trẻ em con người nhân văn, tức là con người không chỉ hiểu biết, nắm vững tri thức mà còn biết yêu thương, khoan dung, có năng lực cảm xúc và tư duy sáng tạo, có ý thức về cá nhân và công lí. Các môn Văn, Sử, Nhạc, Họa là những môn học có ưu thế lớn trong việc thực hiện yêu cầu này. Tuy nhiên, việc giảng dạy các môn này trong nhà trường hiện nay chưa làm tốt nhiệm vụ đặt ra. Cần đổi mới căn bản chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy các môn học để góp phần hình thành một thế hệ trẻ thông minh, nhân ái, tự tin và sáng tạo.

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình thành con người nhân văn như một yêu cầu của giáo dục phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 - Thaùng 11/2014 56 HÌNH THÀNH CON NGƯỜI NHÂN VĂN NHƯ MỘT YÊU CẦU CỦA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG NGUYỄN THỊ KIM NGÂN(*) TÓM TẮT Muốn đổi mới giáo dục trước hết phải có triết lí giáo dục. Một trong những nội dung quan trọng của triết lí giáo dục Việt Nam hiện nay là làm sao hình thành ở trẻ em con người nhân văn, tức là con người không chỉ hiểu biết, nắm vững tri thức mà còn biết yêu thương, khoan dung, có năng lực cảm xúc và tư duy sáng tạo, có ý thức về cá nhân và công lí. Các môn Văn, Sử, Nhạc, Họa là những môn học có ưu thế lớn trong việc thực hiện yêu cầu này. Tuy nhiên, việc giảng dạy các môn này trong nhà trường hiện nay chưa làm tốt nhiệm vụ đặt ra. Cần đổi mới căn bản chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy các môn học để góp phần hình thành một thế hệ trẻ thông minh, nhân ái, tự tin và sáng tạo. Từ khóa: triết lí giáo dục, con người nhân văn, năng lực cảm xúc, tư duy sáng tạo ABSTRACT A constructed philosophy of education is the primary condition for fundamental and comprehensive innovation in education and training. One theory of philosophy of education is how to mould our children into the persons of human culture, i.e. the individuals who have not only the knowledge but also the affection and generosity, who are imbued with not only emotions but also creative thinking, who are conscious of the individual interests and justice. Literature, History, Music, Painting as subject-taught in schools play an advantageous role in implementing these missions. However, the teaching of the social dis ciplines has not met the current requirements. A fundamental and comprehensive innnovation in syllabus, cirriculum and teaching methods have become a must in order to make a contribution to forming a generation of intelligence, humaneness, self – confidence and creativity. Keywords: constructed philosophy of education, the persons of human culture, emotions, creative thinking (*)Trong cuộc đổi mới giáo dục hiện nay có rất nhiều vấn đề đang đặt ra. Đổi mới phải bắt đầu từ đâu? Cần đột phá ở khâu nào? Cốt lõi của cải cách là cái gì? Đây là những vấn đề lớn, chúng tôi không có khả năng và không dám bàn tới. Tuy nhiên thiết nghĩ, nếu nói bắt đầu từ đâu thì nhất định phải bắt đầu từ tư duy, từ quan niệm. (*)TS, Trường Đại học Sài Gòn Dù có chọn một điểm nào đó để đột phá, để làm bung ra mọi thứ và sắp xếp lại, ví dụ như đột phá vào khâu tuyển sinh hay thi cử chẳng hạn, thì công việc đột phá ấy cũng phải xuất phát từ một quan niệm chung nào đó, phải được đặt trong hệ thống một chuỗi hành động được tính toán đầy đủ, chứ không phải là một sự lựa chọn tùy tiện, ngẫu nhiên. Ngay cả bản thân việc tổ chức 57 lại hệ thống giáo dục, cách quản lí giáo dục tuy cũng thuộc vào hàng những vấn đề ưu tiên số một nhưng để làm tốt điều này cũng lại phải dựa vào một quan niệm chung nhất quán. Vì vậy có thể nói triết lí giáo dục là điểm khởi đầu của cải cách giáo dục. Công cuộc cải cách giáo dục không chỉ có vấn đề triết lí giáo dục mà còn nhiều vấn đề quan trọng khác. Nhưng không bắt đầu từ triết lí giáo dục, không xây dựng hệ thống hoạt động cải cách trên nền tảng một triết lí giáo dục hiện đại nhân văn, được quan niệm rõ ràng, nhất quán thì những đổi mới hay cải tiến khác về nội dung giảng dạy, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy...vv.. sẽ chông chênh, không đầy đủ. Không có điều kiện đi sâu vào vấn đề triết lí giáo dục, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng, dù trong các cuộc thảo luận về triết lí giáo dục, các ý kiến có khác nhau như thế nào, nhìn chung vẫn có một sự thống nhất căn bản: đó là làm sao nền giáo dục của chúng ta phải hình thành nên những con người nhân văn và có tri thức, những con người có khả năng sáng tạo và được tự do phát triển. Đối chiếu với triết lí, mục tiêu như trên chúng ta thấy nhà trường chúng ta chưa hoàn thành được sứ mạng của mình. Tất cả những xuống cấp văn hóa và đạo đức hiện nay, những hiện tượng hết sức xấu hổ và đau lòng đang diễn ra hàng ngày và tràn ngập trên các phương tiện thông tin đại chúng, có nguyên nhân xã hội sâu xa của chúng. Nhưng ở đây cũng có một phần trách nhiệm của giáo dục. Trách nhiệm ấy nằm ở chỗ nào, cách dạy của nhà trường có chỗ nào còn bất cập, làm cho nhà trường không thể làm tốt sứ mạng của mình. Chúng tôi xin phân tích một vài trường hợp cụ thể, thông qua việc dạy Văn, dạy Sử và một số môn học khác để cùng suy nghĩ. Dạy Văn trong trường phổ thông (bao gồm cả tiểu học) là một vấn đề phức tạp, dư luận xã hội cũng thường quan tâm và nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có ý kiến thảo luận. Tuy nhiên cho đến nay mục tiêu của môn học này vẫn chưa được quan niệm đầy đủ và rõ ràng và điều này bộc lộ rõ rệt nhất trong thực tế giảng dạy trong nhà trường. Là một giáo viên nhiều năm đứng lớp, chúng tôi thấy có một thời dạy Văn gần như dạy chính trị. Hầu hết các tác phẩm đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy là tác phẩm có ý nghĩa cách mạng (tính giai cấp, tính lạc quan, kiên định lập trường). Đối với các tác phẩm không thuộc dòng văn học cách mạng thì khi phân tích, bình giảng, giáo viên cũng hướng học sinh đánh giá tác phẩm theo các tiêu chuẩn giá trị trên. Những năm gần đây khuynh hướng này đã được khắc phục, các bài văn trong sách giáo khoa đã đa dạng hơn, có nhiều áng văn hay hơn. Tuy nhiên cách dạy của nhiều thầy cô giáo vẫn còn lạc hậu, không theo kịp, vẫn muốn biến bài dạy Văn thành dạy đạo đức và chính trị. Đáng chú ý là cùng với việc khắc phục khuynh hướng chính trị hóa việc dạy Văn, hiện nay đang tồn tại một xu hướng khác – đó là biến môn Văn thành môn học cung cấp kiến thức về văn học, tiểu sử tác giả, thi pháp tác phẩmv..v.. Thay vì dạy văn chương, chúng ta lại dạy nghiên cứu về văn chương. Kết quả là nội dung tư tưởng – tình cảm của tác phẩm không được khắc sâu, cái hay cái đẹp của tác phẩm cũng không được cảm nhận, cái còn lại nhiều nhất vẫn là những kiến thức thuộc lòng về bố cục, chủ đề, các biện pháp nghệ thuật được sử dụng..v..v Môn Văn không còn lôi cuốn nữa vì mất đi phần hồn, phần sáng tạo, chỉ còn là môn cung cấp kiến thức 58 thuần túy như các môn Khoa học Tự nhiên, Kỹ thuật. Điều này cũng diễn ra tương tự với việc dạy tiếng Việt mà nhiều nhà chuyên môn và các bậc cha mẹ học sinh đã từng lên tiếng: việc dạy tiếng Việt trong trường phổ thông không tập trung hướng học sinh vào việc sử dụng tiếng mẹ đẻ thành thạo mà chỉ cung cấp kiến thức mang tính chất ngôn ngữ học. Kết quả là học sinh học tiếng Việt rất vất vả, nặng nề, lên đến đại học vẫn viết sai câu, sai chính tả, diễn đạt, từ ngữ Vì sao có hiện tượng trên đây? Theo chúng tôi cái gốc là ở quan niệm, ở triết lí giáo dục và việc thực hiện triết lí đó một cách cụ thể trong chương trình, sách giáo khoa, trong phương pháp giảng dạy. Nếu quan niệm sứ mạng của nhà trường là hình thành những con người nhân văn thì mục tiêu của các môn học phải thể hiện được điều đó. Theo chúng tôi, trường phổ thông, bên cạnh các môn cung cấp những tri thức phổ thông nhằm phát triển trí tuệ như các môn khoa học cơ bản, vi tính, ngoại ngữ còn có những môn cung cấp kinh nghiệm sống phổ thông nhằm hình thành nhân cách, thế giới tinh thần của trẻ em. Đây là hai loại “phổ thông” rất khác nhau: một loại phổ thông về kiến thức, một loại phổ thông về năng lực cảm xúc, năng lực tình cảm. Một cái là IQ (intelligence quotient – chỉ số thông minh), một cái là EQ (Emotional quotient– chỉ số cảm xúc). Sứ mạng đặc trưng của môn Văn trong nhà trường chính là ở chỗ nó không phải là những phương tiện để giáo dục chính trị hay đạo đức, cũng không phải để cung cấp những tri thức về ngành Văn học mà quan trọng là hình thành những năng lực tình cảm căn bản, những cảm xúc về giá trị, về đẹp, xấu, yêu, ghét. Điều này sẽ góp phần hình thành con người nhân văn bên cạnh con người tri thức, tạo nên sự phát triển hài hòa, cân bằng của học sinh. Cũng cần lưu ý rằng khi nói đến việc hình thành con người nhân văn, không nên hiểu đây chỉ là con người có lòng nhân ái, biết yêu thương mà đây là con người có ý thức về cá nhân mình, có bản lĩnh, biết khát khao chân lý và tự do. Các tác phẩm văn chương xuất sắc xưa nay bao giờ cũng chứa đựng những nội dung và tinh thần đó. Vấn đề là các thầy cô giáo có hiểu được và có khả năng truyền đạt cho học sinh được hay không. Liên quan đến vấn đề xác định mục tiêu môn học trong việc hình thành con người nhân văn ở trường phổ thông, chúng tôi muốn nêu thêm một trường hợp nữa là môn Lịch sử Việt Nam. Môn Lịch sử có khác môn Văn một chút bởi vì ở đây vị trí của phần kiến thức khá quan trọng. Tuy nhiên xét trong tổng thể và trong tương quan với các môn cung cấp tri thức phổ thông thì môn Lịch sử vẫn gần với môn Văn hơn. Dạy Sử là để học sinh biết được lịch sử dân tộc, nhưng quan trọng hơn là để các em yêu dân tộc, tự hào với chiến công của cha ông và thấm thía với nỗi đau, bất hạnh của dân tộc. Cái chính đối với môn Lịch sử không phải là nhớ chính xác, thuộc lòng, năm nào, tháng nào xẩy ra trận đánh, các sự kiện và các chi tiết mà là cảm hứng về sự kiện, bài học rút ra, sợi dây liên hệ giữa quá khứ và hiện tại. Vừa qua dư luận xã hội xôn xao về hiện tượng hàng ngàn bài thi đại học, cao đẳng (bị điểm không (0) môn Lịch sử. Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng đó là do cách dạy ở nhà trường. Môn Sử đã không thu hút được học sinh do cách dạy nhồi nhét tri thức, thiên về học thuộc lòng, nhớ máy móc, diễn giải cứng nhắc, rập khuôn, 59 giáo điều, mất đi tất cả cái hồn của biến cố, sự kiện. Cách dạy này một phần bắt nguồn từ quan niệm không đầy đủ về tính chất và mục tiêu của môn học trong việc hình thành con người nhân văn mà trong số các môn học trong nhà trường thì môn Lịch sử có một vị trí đặc biệt. Nếu chú ý kĩ, chúng ta sẽ thấy đây cũng là tình trạng diễn ra với hai môn Nhạc và Họa. Cùng với Văn, Sử đây là hai môn có ý nghĩa quan trọng trong việc bồi dưỡng năng lực cảm xúc, khả năng cảm nhận cái hay, cái đẹp và những giá trị của cuộc sống. Song thực tế giảng dạy hiện nay ở các trường cho thấy việc dạy Nhạc, Họa đã bị biến thành việc dạy tri thức và kĩ năng thuần túy, phần dạy cảm nhận vẻ đẹp của âm thanh, màu sắc, cách nghe nhạc, cách xem tranh đã không được quan tâm đầy đủ. Nhiều học sinh vì không thích, hoặc không có khả năng vẽ, hát, chơi đàn đã bị loại khỏi cuộc chơi và chán, không thích học. Rõ ràng nhà trường đã bỏ lỡ mất một cơ hội trong việc hình thành con người “phổ thông” xét dưới khía cạnh nhân văn và để cho khuynh hướng dạy và học thiên về thu nhận tri thức lấn lướt. Những ví dụ và phân tích trên đây cho thấy vấn đề xác định mục tiêu và tính chất môn học rất quan trọng. Nhưng để xác định đúng phải có một triết lí giáo dục làm nền tảng, làm điểm xuất phát. Dĩ nhiên từ triết lí giáo dục đến thực tiễn giảng dạy là cả một vấn đề. Có triết lí giáo dục đúng nhưng nếu không quán triệt được trong xây dựng chương trình, xây dựng mục tiêu môn học, trong biên soạn sách giáo khoa cũng như trong cách giảng dạy của thầy cô giáo thì cuối cùng triết lí giáo dục vẫn không phát huy được sứ mạng của nó. Những phân tích của chúng tôi ở đây về tình hình giảng dạy Văn, Sử, Nhạc, Họa chủ yếu nhằm làm rõ sự cần thiết, tiên quyết của triết lí giáo dục. Triết lí giáo dục đã ảnh hưởng cụ thể như thế nào đến thực tế dạy và học, đến sản phẩm của nhà trường. Chúng tôi cũng thiết tha mong muốn các cấp quản lý, các nhà biên soạn chương trình, các tác giả sách giáo khoa hãy quan tâm nhiều hơn nữa đến việc hình thành con người nhân văn như là một thành tố cơ bản của mục tiêu giáo dục. Cần quán triệt nó hơn nữa trong cấu trúc chương trình, trong xác định mục tiêu môn học. Việc hình thành con người nhân văn là công việc của cả hệ thống giáo dục, của toàn bộ các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Tuy nhiên, vị trí của các môn học rất quan trọng và sự đổi mới ở đây là trong tầm tay, có thể kiểm soát được, không phụ thuộc quá nhiều vào các điều kiện khách quan bên ngoài. Làm hay không làm được điều này cũng là một yêu cầu, một thách thức đối với việc cải cách mà hiện nay chúng ta đang mong muốn thực hiện./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dự thảo Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”. 60 2. Lương Vị Hoàng - Khổng Khang Hoa (2008), Triết học giáo dục hiện đại (Bùi Đức Thiệp dịch), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Nguyễn Đăng Tiến (2001), Nhà trường phổ thông Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, Nxb ĐHQG Hà Nội. 4. Education Digest, March 2012. 5. Theo Education Next, số Fall 2013/ vol.13, No.4. * Ngày nhận bài: 20/10/2014. Biên tập xong: 05/11/2014. Duyệt đăng: 07/11/2014
Tài liệu liên quan