Tóm tắt. Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nói chung, dạy học môn
Lịch sử và Địa lí nói riêng là một trong những năng lực nghề nghiệp quan trọng của giáo
viên tiểu học để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và thực tiễn
giáo dục Việt Nam. Vì vậy, việc trang bị năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh
viên ngành Giáo dục Tiểu học phù hợp với điều kiện Việt Nam và xu hướng chung của thế
giới là rất cần thiết. Nội dung bài viết trình bày quan niệm về năng lực ứng dụng công nghệ
thông tin, sự cần thiết phải hình thành năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh viên
ngành Giáo dục Tiểu học trong dạy học môn Lịch sử và Địa lí (qua nghiên cứu trường hợp
tại Đại học Tây Nguyên) và định hướng một số giải pháp cho vấn đề trên.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 191 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình thành năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học trong dạy học môn Lịch sử và Địa lí ở trường Đại học Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
278
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0048
Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4C, pp. 278-285
This paper is available online at
HÌNH THÀNH NĂNG LỰC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC TRONG DẠY HỌC MÔN
LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
Nguyễn Mạnh Hưởng*1 và Lê Thị Thúy An2
1Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên
Tóm tắt. Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nói chung, dạy học môn
Lịch sử và Địa lí nói riêng là một trong những năng lực nghề nghiệp quan trọng của giáo
viên tiểu học để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và thực tiễn
giáo dục Việt Nam. Vì vậy, việc trang bị năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh
viên ngành Giáo dục Tiểu học phù hợp với điều kiện Việt Nam và xu hướng chung của thế
giới là rất cần thiết. Nội dung bài viết trình bày quan niệm về năng lực ứng dụng công nghệ
thông tin, sự cần thiết phải hình thành năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh viên
ngành Giáo dục Tiểu học trong dạy học môn Lịch sử và Địa lí (qua nghiên cứu trường hợp
tại Đại học Tây Nguyên) và định hướng một số giải pháp cho vấn đề trên.
Từ khóa: năng lực, ứng dụng công nghệ thông tin, sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học,
Lịch sử và Địa lí, Đại học Tây Nguyên.
1. Mở đầu
Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học (DH) là một xu thế tất yếu của nền
giáo dục (GD) hiện đại, đặc biệt khi nhân loại bước sang thế kỉ XXI. Vai trò và hiệu quả của
việc ứng dụng này đã được thừa nhận từ lâu trong nhiều công trình, bài báo quốc tế và trong
nước, bao gồm cả việc DH lịch sử và địa lí [1-7]. Gần đây, khi GD phổ thông Việt Nam đang
chuyển đổi từ chương trình GD tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực (NL) người học, nhiều
bài viết của các nhà nghiên cứu GD thuộc những lĩnh vực, cấp học, môn học khác nhau đã tập
trung trao đổi về ứng dụng CNTT trong đào tạo sinh viên (SV) và DH ở phổ thông theo hướng
phát triển NL [8-14]. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những định hướng, đi tiên phong trong việc
tổ chức chương trình tập huấn, bồi dưỡng về nâng cao NL sử dụng CNTT cho đội ngũ giảng
viên các trường sư phạm và GV phổ thông cả nước [15, 16]. Từ những kết quả nghiên cứu về lí
luận và học hỏi kinh nghiệm, thực tiễn ứng dụng CNTT trong DH, nhiều trường đại học sư
phạm đã không ngừng nâng cao chất lượng chuyên môn trong đào tạo GV. Tuy nhiên, do đặc
trưng vùng miền cũng như những tác động khách quan và chủ quan, nhiều SV sư phạm sau khi
tốt nghiệp, nhận nhiệm vụ công tác còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế về NL chuyên môn và NL
sư phạm, trong đó có NL ứng dụng CNTT vào DH.
Trường Đại học Tây Nguyên là trường đa ngành, trong đó có đào tạo GV Tiểu học. Khi tốt
nghiệp, SV phải có NL sư phạm và nhiều NL khác, bao gồm NL ứng dụng CNTT vào DH môn
Toán, Tiếng Việt, Lịch sử và Địa lí... Như vậy, trong quá trình đào tạo, việc hình thành và phát
Ngày nhận bài: 25/2/2020. Ngày sửabài: 13/3/2020. Ngày nhận đăng: 20/3/2020.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Mạnh Hưởng. Địa chỉ e-mail: nmhuongsphn@gmail.com
Hình thành năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học...
279
triển NL ứng dụng CNTT cho SV ngành GD Tiểu học trong DH nói chung, môn Lịch sử và Địa
lí nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng. Những công trình, bài viết mà chúng tôi tiếp cận ở trên đã
làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận liên quan đến ứng dụng CNTT trong GD qua các môn học,
nhưng chưa đề xuất giải pháp cụ thể cho đặc trưng từng vùng, địa phương. Tại Trường Đại học
Tây Nguyên, chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu cụ thể về hình thành NL ứng dụng
CNTT cho SV ngành GD Tiểu học trong DH môn Lịch sử và Địa lí. Vì vậy, trên cơ sở tiếp cận
những nguồn tài liệu tham khảo, bài báo sẽ tập trung làm rõ ba nội dung: 1- Quan niệm về NL
và NL ứng dụng CNTT; 2- Sự cần thiết phải hình thành NL ứng dụng CNTT cho SV ngành GD
Tiểu học trong DH môn Lịch sử và Địa lí (qua nghiên cứu trường hợp tại Đại học Tây Nguyên);
3- Định hướng và đề xuất một số giải pháp cho vấn đề nghiên cứu.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Quan niệm về năng lực và năng lực ứng dụng công nghệ thông tin
Có nhiều quan niệm khác nhau về NL:
Một số nhà GD cho rằng: NL có thể định nghĩa như là một khả năng hành động bằng sự cố
gắng dựa trên nhiều nguồn lực. Những khả năng này được sử dụng một cách phù hợp, bao gồm
tất cả những gì học được từ nhà trường cũng như những kinh nghiệm của người học, những kĩ
năng, thái độ và sự hứng thú.
Theo từ điển Tiếng Việt: “NL là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó. Là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn
thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao” [17, tr.800]. Trong Chương trình GD phổ
thông (Tổng thể) của Việt Nam đã xác định rõ: NL là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát
triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp
các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện
thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể
[18, tr.36].
Ở Việt Nam, thuật ngữ CNTT được định nghĩa trong Nghị quyết số 49/CP của Chính phủ:
“là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại – chủ yếu
là máy tính và viễn thông nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên
thông tin...” [6, tr.17]. Theo định nghĩa trên, thuật ngữ CNTT ở Việt Nam bao gồm cả 2 yếu tố:
CNTT và truyền thông.
Từ những quan niệm trên về NL và định nghĩa CNTT ở Việt Nam, có thể rút ra NL ứng
dụng CNTT của SV sư phạm trong DH là khả năng sử dụng các công cụ và tài nguyên công
nghệ để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lí thông tin hiệu quả trong các hoạt động
dạy và học. Theo đó, SV sư phạm không chỉ nhận biết, ghi nhớ hoặc biết và hiểu kiến thức về
các công cụ, tài nguyên công nghệ, mà còn phải biết làm, ứng dụng hiệu quả kiến thức đó để
giao tiếp, tạo ra, phổ biến, quản lí thông tin số vào hoạt động dạy học cụ thể. Hành động (làm,
thực hiện) của SV phải gắn với ý thức và thái độ, niềm tin trên nền tảng kiến thức, kĩ năng cụ
thể chứ không phải làm một cách "máy móc", “tùy tiện".
2.2. Sự cần thiết phải hình thành năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh
viên ngành Giáo dục Tiểu học trong dạy học môn Lịch sử và Địa lí ở Trường Đại
học Tây Nguyên
2.2.1. Yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang và sẽ tạo ra những biến động mạnh mẽ, có ảnh hưởng sâu
sắc đến mọi mặt của nền kinh tế, xã hội thế giới, trong đó có GD và đào tạo, đặc biệt là GD đại
học – nơi cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội. Cuộc cách mạng đòi hỏi các Trường đại học,
Nguyễn Mạnh Hưởng* và Lê Thị Thúy An
280
trong đó có Trường Đại học Tây Nguyên cần đào tạo ra đội ngũ có kiến thức về CNTT, cập nhật
kịp thời và ứng dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật mới nhất của thế giới vào cuộc sống. Chỉ
thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ (ngày 4/9/2019) đã yêu cầu các cơ sở giáo dục đại
học cần đào tạo nguồn nhân lực có khả năng thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
2.2.2. Yêu cầu của thực tiễn dạy học các môn Lịch sử và Địa lí
Thực tiễn DH môn Lịch sử và Địa lí, nhất là môn Lịch sử ở trường phổ thông những năm
qua luôn thu hút sự chú ý, quan tâm lớn của toàn xã hội. Năm năm gần đây, kết quả điểm thi
môn Lịch sử trong kì thi THPT quốc gia bị đánh giá là thấp “đội sổ” so với các môn Ngữ văn,
Vật lí, Hóa học, Địa lí, Giáo dục công dân. Với số liệu hàng trăm bài thi môn Lịch sử bị
dưới điểm 0 [19], hay 70% bài thi môn Lịch sử bị dưới điểm 5 [20] luôn trở thành đề tài khai
thác của nhiều tờ báo mạng xã hội và báo giấy.
Môn Lịch sử và Địa lí có những đặc trưng khác biệt so với nhiều môn học: HS không thể
“trực tiếp quan sát”, “trực quan sinh động” về quá khứ hoặc các đối tượng, hiện tượng lịch sử
và tự nhiên đã diễn ra (ví dụ việc Mĩ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản năm 1945, hoặc
“thảm họa kép” về trận động đất và sóng thần ở Nhật Bản năm 2011). “Tính quá khứ” của
môn Lịch sử và Địa lí là một trong những cản trở, khó khăn trong quá trình nhận thức của người
học, đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh tiểu học. Tuy nhiên, khi học tập môn Lịch sử và Địa lí
cũng có quy luật chung trong con đường nhận thức, đó là phải bắt đầu “từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng”. DH cho học sinh tiểu học, nếu GV biết ứng dụng hiệu quả CNTT thông
qua môi trường đa phương tiện (học tập qua tranh ảnh, video, phim tư liệu, Infographic,
Imindmap ) sẽ giúp các em khắc sâu biểu tượng lịch sử và địa lí, ghi nhớ kiến thức và phát
triển NL tốt.
Như vậy, ứng dụng CNTT trong DH môn Lịch sử và Địa lí ở bậc Tiểu học có ý nghĩa quan
trọng cả về lí luận và thực tiễn. Để góp phần nâng cao chất lượng GD phổ thông, trong quá trình
đào tạo, SV sư phạm cần được trang bị đầy đủ kiến thức và rèn luyện kĩ năng công nghệ để từng
bước được hình thành, phát triển NL ứng dụng CNTT vào DH.
2.2.3. Yêu cầu của chương trình đào tạo đối với việc trang bị năng lực ứng dụng công nghệ
thông tin cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học tại Trường Đại học Tây Nguyên
Trường Đại học Tây Nguyên được thành lập được thành lập năm 1977, là trường đa ngành,
trong đó có đào tạo GV Trung học phổ thông, Tiểu học và Mầm non. Hoạt động đào tạo Cử
nhân sư phạm GD Tiểu học của Trường bắt đầu từ 1997, đến nay đã có hơn 2000 SV ngành GD
Tiểu học học ra trường và công tác ở hầu khắp các Tỉnh Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và nhiều
nơi trên toàn quốc.
Chương trình đào tạo ngành GD Tiểu học của Trường Đại học Tây Nguyên được tổ chức
theo hệ thống tín chỉ với tổng khối lượng chương trình 120 tín chỉ (không kể các học phần GD
thể chất và GD quốc phòng) và được thực hiện trong 4 năm, 8 học kì. Các học phần được xây
dựng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện nay của các trường tiểu
học, đồng thời đáp ứng với yêu cầu của nhiều trường tiểu học ở Tây Nguyên có đông học sinh
dân tộc thiểu số (ở khu vực Tây Nguyên có 47 dân tộc cùng sinh sống).
Trước yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0, Trường Đại học Tây Nguyên cũng đã chú trọng
đầu tư trang thiết bị và đưa các nội dung tin học vào chương trình đào tạo đảm bảo SV sư phạm
tiểu học có trình độ và kĩ năng công nghệ cơ bản để khai thác các nguồn tài nguyên lưu trữ trên
mạng, biết sử dụng các phần mềm công cụ thông dụng và các phần mềm dạy học cho tiểu học.
Từ năm 2009, được sự hỗ trợ của Dự án Giáo dục đại học, Nhà trường ưu tiên trang bị 01 phòng
máy phục vụ cho đào tạo GV tiểu học, mầm non với 40 máy tính, 01 máy chiếu Projector.
Trong chương trình đào tạo Cử nhân Sư phạm tiểu học [21], nội dung tin học và ứng dụng
CNTT trong DH ở tiểu học có các học phần hỗ trợ: Phương tiện kỹ thuật dạy học& ứng dụng
CNTT trong DH tiểu học (năm thứ 3) với 2 tín chỉ (12,5 giờ lí thuyết, 25 giờ thực hành ở trên
Hình thành năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học...
281
lớp và 50 giờ tự học ở nhà của SV). Nội dung học phần cung cấp kiến thức và kĩ năng cơ bản về
sử dụng phương tiện kĩ thuật và ứng dụng phần mềm M.Power Point để thiết kế giáo án điện tử.
Tuy nhiên với thời lượng có hạn, học phần chỉ đảm bảo cung cấp những kiến thức, kĩ năng
chung nhất về phương tiện kĩ thuật và thiết kế giáo án điện tử có thể ứng dụng DH cho tất cả các
môn học ở tiểu học (theo Chương trình GD phổ thông mới): Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã
hội, Lịch sử và Địa lí, Đạo Đức, Khoa học [18]. Riêng với môn Lịch sử và Địa lí, do nội dung
được lồng ghép vào các học phần Cơ sở Tự nhiên & Xã hội 1, Lịch sử - Địa lí & Phương pháp
DH với thời lượng khoảng 30,5 giờ lí thuyết, 65 giờ thực hành, 90 giờ tự học, chương trình đào
tạo chỉ đảm bảo cung cấp kiến thức khái quát về Lịch sử, Địa lí Việt Nam và thế giới cho SV
cũng như cung cấp hiểu biết về các phương tiện, phương pháp và hình thức tổ chức DH đặc
trưng của môn tự nhiên và xã hội, Lịch sử và Địa lí. Nội dung bao trùm như vậy, giảng viên khó
có đủ thời gian trên lớp để trang bị NL ứng dụng CNTT cho SV. Làm thế nào để phát triển NL
ứng dụng CNTT cho SV chính là yêu cầu bức thiết [21].
2.3. Định hướng một số giải pháp cơ bản về hình thành năng lực ứng dụng công
nghệ thông tin cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học trong dạy học môn Lịch sử
và Địa lí ở trường Đại học Tây Nguyên
Từ những nghiên cứu về lí luận và thực tiễn ở trên, để góp phần hình thành NL ứng dụng
CNTT cho SV ngành GD Tiểu học trong DH môn Lịch sử và Địa lí ở trường Đại học Tây
Nguyên, chúng tôi định hướng 03 nhóm giải pháp liên quan trực tiếp đến Nhà trường, giảng
viên và sinh viên như sau:
2.3.1. Nhóm giải pháp chung từ phía Nhà trường
Thứ nhất, Nhà trường cần triển khai ngay việc xây dựng và áp dụng “tiêu chuẩn hóa” về
ứng dụng CNTT trong hoạt động đào tạo. Phải coi đây là một trong các yếu tố cốt lõi khi đánh
giá về NL đào tạo, nghiên cứu và hoàn thành nhiệm của của giảng viên trong năm học. Xây
dựng và áp dụng “tiêu chuẩn hóa” về ứng dụng CNTT trong hoạt động đào tạo sẽ đem lại nhiều
tác dụng: đội ngũ cán bộ Nhà trường sẽ tích cực trau dồi kiến thức, kĩ năng về CNTT để giảng
dạy; SV được học tập trong môi trường công nghệ, tích cực sẽ sáng tạo trong giải quyết vấn đề.
Giải pháp này cũng hướng vào giá trị cốt lõi mà trường Đại học Tây Nguyên đã xác định trong
chiến lược phát triển: “Chất lượng, sáng tạo và hội nhập”.
Thứ hai, cần coi trọng việc nâng cấp cơ sở hạ tầng về CNTT, đảm bảo hiện đại, đồng bộ và
tiếp cận những thành tựu mới của khoa học công nghệ nhằm phục vụ tốt cho hoạt động đào tạo
(trong đó có việc tự học, tự nghiên cứu của SV). Khi nhận thức đúng đắn về vấn đề này, Nhà
trường sẽ đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp hạ tầng CNTT hiện đại, phù hợp với yêu cầu của từng
ngành đào tạo, trong đó có Sư phạm GD Tiểu học. Các phòng học đa phương tiện sẽ phải xây
dựng đồng bộ về thiết bị và phần mềm, mạng Wifi tốc độ cao, kho tài liệu mở, thư viện kĩ thuật
số.... Để nâng cấp cơ sở hạ tầng về CNTT, ban lãnh đạo trường Đại học Tây Nguyên có thể tận
dụng và tranh thủ từ nhiều nguồn lực: trích kinh phí đào tạo thường xuyên từ Bộ GD và ĐT, các
dự án tài trợ, thỏa thuận và kí kết với các trường tiểu học về cung cấp nguồn giáo viên chất
lượng cao, các đơn vị liên kết đào tạo, xã hội hóa giáo dục.
Thứ ba, Ban nghiên cứu, xây dựng chương trình đào tạo của Nhà trường cần rà soát lại và
điều chỉnh chương trình đào tạo, tăng thêm thời lượng cho môn học liên quan đến ứng dụng
CNTT trong DH ở bậc Tiểu học. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và Việt Nam
đang đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện nền GD (tháng 7 - 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành Chương trình giáo dục phổ thông hướng vào hình thành và phát triển NL, phẩm chất công
dân) thì chương trình đào tạo của Nhà trường cần có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp, nhằm
đáp ứng yêu cầu đào tạo GV tiểu học có trình độ chuyên môn và phương pháp giỏi, biết làm chủ
công nghệ. NL của người học chỉ được hình thành và phát triển qua nhận thức, sự ý thức của
Nguyễn Mạnh Hưởng* và Lê Thị Thúy An
282
người học, được người dạy hướng dẫn và việc rèn luyện, thực hành. Tuy nhiên, thời lượng môn
học về ứng dụng CNTT trong đào tạo SV ngành Tiểu học hiện nay còn khiêm tốn, khó đảm bảo
yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo theo mô hình GV tiểu học chất lượng cao. Với lí do trên,
Nhà trường cần tăng thêm thời lượng cho các môn học liên quan đến ứng CNTT, để việc đào
tạo vừa đảm bảo thời gian trang bị kiến thức về CNTT, vừa rèn luyện kĩ năng thực hành và ứng
dụng vào thực tiễn theo chuyên môn. Nhà trường cũng nên khuyến khích, hỗ trợ xây dựng bài
giảng trực tuyến, số hóa bài giảng, bài tập hướng dẫn SV tự thực hành. Trong trường hợp bị giới
hạn về số tiết dạy, Ban Nghiên cứu và xây dựng chương trình đào tạo của Nhà trường cần sớm
xây dựng và triển khai một số học phần, hoặc mở khóa học đào tạo trực truyến cho SV sư phạm
nói chung về ứng dụng CNTT trong DH các môn Lịch sử và Địa lí, Tìm hiểu Tự nhiên và Xã
hội Như vậy, SV ngành sư phạm nói chung, ngành GD Tiểu học nói riêng sẽ có thêm cơ hội
tìm hiểu, rèn luyện kĩ năng ứng dụng CNTT vào chuyên môn.
Thứ tư, Nhà trường cần thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn, bồi dưỡng nâng cao
trình độ ứng dụng CNTT trong DH cho đội ngũ giảng viên và SV sư phạm. Thương hiệu và chất
lượng của một ngôi trường nói chung đều phụ thuộc vào 4 yếu tố cốt lõi (nhân lực - con người,
chương trình đào tạo, vật lực - cơ sở vật chất, tin lực - nắm bắt thông tin), trong đó con người
được coi là yếu tố hàng đầu quyết định cho sự phát triển. Trường Đại học Tây Nguyên có thể sử
dụng kết hợp nhiều nguồn nhân lực để triển khai việc bồi dưỡng, tập huấn về CNTT cho giảng
viên, SV: mời nhóm giảng viên cốt cán của Microsoft Việt Nam đã và đang bồi dưỡng, tập huấn
cho các trường đại học và cao đẳng sư phạm (thông qua Chương trình DH cho tương lai - Teach
to the Future); Sử dụng đội ngũ giảng viên bộ môn Tin học và một số giảng viên của Nhà
trường giỏi về CNTT trong DH. Nội dung và chương trình tập huấn, bồi dưỡng nên theo định
kì, tập trung vào phương pháp tích hợp, phù hợp đặc thù từng chuyên ngành, nhóm môn học
(môn Lịch sử và Địa lí, môn Tự nhiên). Các tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên sẽ được
Nhà trường giao nhiệm vụ hỗ trợ trong quá trình triển khai, phát động các cuộc thi ứng dụng
CNTT trong DH, học tập và nghiên cứu khoa học...
2.3.2. Nhóm giải pháp từ phía giảng viên
Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới đào tạo nguồn nhân lực nói chung, hình thành NL ứng
dụng CNTTcho SV sư phạm ngành GD Tiểu học trong DH môn Lịch sử và Địa lí nói riêng, vấn
đề mấu chốt chính là Giảng viên – những người trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo. Đội
ngũ giảng viên phải nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm đối với nghề nghiệp và luôn chủ
động nắm bắt, cập nhật thông tin trong bối cảnh mới để hành động. Từ thực tiễn cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 và công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền GD Việt Nam cho thấy: nếu
giảng viên các trường sư phạm chỉ có kiến thức chuyên môn vững chắc (nền tảng cốt lõi), mà
không có phương pháp DH tốt (để dạy cách học, cách làm việc) và công nghệ thông tin (công
cụ hỗ trợ để thực hiện trong thời đại 4.0) thì không thể nâng cao chất lượng đào tạo. Như vậy,
ba yếu tố cần thiết đối với giảng viên sư phạm ở trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ
nhau, phù hợp với mô hình TPACK (Technological pedagogical content knowledge), góp phần
vào hình thành và phát triển NL ứng dụng CNTT cho SV [4, tr.60-70]. Đó là những kiến thức
về công nghệ (TK), kiến thức về phương pháp (PK) và kiến thức chuyên môn (CK). Giữa các
thành tố TK, PK và CK luôn có mối quan hệ qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Để đáp ứng những
yêu cầu trên, mỗi giảng viên bên cạnh việc tham gia các khóa bồi dưỡng, tập huấn về ứng dụng
CNTT do Nhà trường tổ chức, còn phải tự trang bị thêm kiến thức, kĩ năng theo chuyên môn
của mình.
Đội ngũ giảng viên nói chung, giảng viên dạy các học phần về ứng dụng CNTT, Lịch sử và
Địa lí cho SV ngành GD Tiểu học nói riêng phải chủ động, tích cực đổi mới về nội dung,
phương pháp DH và kiểm tra đánh giá SV. Ví dụ, ở mỗi học phần, giảng viên sẽ giao nhiệm vụ
cho SV sử dụng CNTT để khai thác, xử lí tư liệu hình ảnh trên mạng Internet, thiết kế bài trình
Hình thành năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học...
283
bày trên các Silde khi xemina, soạn giáo án điện tử khi tập giảng... Thông qua các hoạt động
giải quyết nhiệm vụ được giao, mỗi SV sẽ từng bước được rèn luyện, thực hành các kĩ năng sử
dụng CNTT trong học tập, qua đó hình thành NL. CNTT là đa năng, chứ không phải vạn năng
nên việc dạy - học cần vận dụng theo mô hình TPACK, đảm bảo phù hợp với thực tiễn. Đồng
thờ