TÓM TẮT
Rắn là con vật tự nhiên đã đi vào đời sống và trở thành một biểu tượng văn hoá của
nhân loại. Hình tượng này có rất nhiều biến thể và các ý nghĩa khác nhau. Bài viết tìm
hiểu hình tượng rắn với tư cách là nhân vật yêu tinh, yêu quái – đối thủ của nhân vật chính
trong truyện cổ tích Việt Nam. Tìm hiểu 207 truyện cổ dân gian liên quan đến rắn, bài viết
chỉ ra các đặc điểm và tính chất yêu tinh, yêu quái của hình tượng rắn trong 30 truyện,
qua đó thấy được sự vận động của hình tượng rắn từ trong thần thoại đến cổ tích: Trong
thần thoại là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Còn trong cổ tích hình tượng rắn là nhân
vật phụ, là đối thủ thử thách để nhân vật chính bộc lộ tài năng và phẩm chất của mình.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 629 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình tượng rắn – Nhân vật yêu quái trong truyện cổ tích, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011 
 32 
HÌNH TƯỢNG RẮN – NHÂN VẬT YÊU QUÁI 
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH 
TRẦN MINH HƯỜNG (*) 
HÀ THỊ THANH NGA (**) 
TÓM TẮT 
Rắn là con vật tự nhiên đã đi vào đời sống và trở thành một biểu tượng văn hoá của 
nhân loại. Hình tượng này có rất nhiều biến thể và các ý nghĩa khác nhau. Bài viết tìm 
hiểu hình tượng rắn với tư cách là nhân vật yêu tinh, yêu quái – đối thủ của nhân vật chính 
trong truyện cổ tích Việt Nam. Tìm hiểu 207 truyện cổ dân gian liên quan đến rắn, bài viết 
chỉ ra các đặc điểm và tính chất yêu tinh, yêu quái của hình tượng rắn trong 30 truyện, 
qua đó thấy được sự vận động của hình tượng rắn từ trong thần thoại đến cổ tích: Trong 
thần thoại là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Còn trong cổ tích hình tượng rắn là nhân 
vật phụ, là đối thủ thử thách để nhân vật chính bộc lộ tài năng và phẩm chất của mình. 
ABSTRACT 
The snake is a wild animal which has gone into our lives and become a cultural 
symbol of humanity. This symbol has varied forms with different connotations. This 
article explores snakes as a symbol of demons or sprites – the antagonists of the heroes 
in Vietnamese fairy stories. When doing research on 207 old stories, the writer showed 
us the characteristics and nature of demons or sprites through the symbol of snakes in 
30 typical stories so as to help readers see how the symbol of snakes changes from 
myths to fairy stories. In myths, snakes are the main characters, the heroes while in 
fairy tales they are not; they are the antagonists who challenge the main characters to 
show their talents and qualities 
Là một loại động vật trong thế giới tự 
nhiên nhưng rắn đã sớm trở thành một biểu 
tượng văn hoá của nhân loại, vì nó được gắn 
liền với tục thờ, huyền thoại, tín ngưỡng, lễ 
hội, kiến trúc và điêu khắc dân gian(2)
Tính 
chất và ý nghĩa biểu trưng của rắn là vô 
cùng phức tạp, thậm chí đối lập nhau: vừa 
biểu trưng cho nước – lửa, cho sự khởi 
nguyên – diệt vong, cho sự khôn ngoan, 
trường sinh – nhục dục, tăm tối và tội lỗi 
Bài viết này tiếp cận hình tượng rắn với tư 
cách là nhân vật yêu quái, đối thủ của con 
người trong thế giới cổ tích. (*) 
(*) 
TS, Trường Đại học Đồng Tháp 
()
 ThS, Trường Đại học Đồng Tháp 
Theo từ điển Tiếng Việt(2), Yêu quái 
(d): Quái vật làm hại người, thường dùng 
để ví kẻ độc ác, mất hết tính người; Yêu 
tinh: (d): Vật tưởng tượng theo mê tín, hình 
thù kì quái, có nhiều phép thuật và độc ác: 
con yêu tinh ăn thịt người, độc ác như yêu 
tinh; Yêu ma: (id), ma quỷ, yêu quái; 
thường dùng để ví kẻ độc ác, ranh mãnh. 
Dựa vào sự biểu hiện của hình tượng rắn 
trong truyện cổ, phần này chúng tôi sẽ xem 
xét hình tượng rắn - nhân vật yêu quái, yêu 
tinh với chức năng là lực lượng thần kì gây 
hại, là đối thủ của nhân vật chính. 
Trong 207 truyện kể dân gian có liên 
quan đến hình tượng rắn mà chúng tôi khảo 
sát được(3) có 30 truyện chứa hình tượng 
 33 
rắn với tư cách là nhân vật yêu quái, bắt 
cóc, ăn thịt – là đối thủ mà con người cần 
tiêu diệt, bao gồm: 
TT Tên truyện Dân tộc Giới tính Ghi chú 
1 Thạch Sanh Kinh Nam 
2 Đại vương Hai hay truyện giết thuồng luồng Kinh Nam 
3 Tiêu diệt mãng xà Kinh Nam 
4 Con thuồng luồng Dao Nam 
5 Sự tích hồ nước Làng Treng H’Rê Nam 
6 HơMênh chém rắn thần H’Rê Nữ 
7 Ao Phật Khơme Nam 
8 Con chim khách mầu nhiệm Kinh Nam 
9 Chàng đánh cá Y Ang Ê Đê Nam 
10 A Xanh Ca Dong Nam 
11 Ba chàng dũng sĩ Ba Na Nam 
12 Sỉnh Lử cứu con ngọc hoàng H’Mông Nam 
13 Ngủ trong bụng mãng xà Kinh Nam 
14 Pù Chộng Cha Thái Nam 
15 Sự tích cầu Tạ Moong Thái Nam 
16 Náng Đẳm Thái Nam 
17 Huồi khún Huồi xau Thái Nam 
18 Chuyện ở Bản Nặm khảu Hủ Thái Nam 
19 Chàng Bơ Lo hay sự tích sông Rin Ca Dong Nam 
20 Chuyện hai anh em mồ côi Vân Kiều Nam 
21 Nước Sung Sướng H’Mông KXĐ* 
22 Sự tích núi Bưa Phi Mường KXĐ* 
23 Thủy quái ở Mu Tần Mường KXĐ* 
 34 
24 Trận Mãng xà Kinh KXĐ* 
25 Nàng Ả Voi Mường Nữ 
26 Sự tích con đom đóm Khơ Mú Nam 
27 Nàng Ae Long và chàng Vương Lạp Kinh Nam 
28 Sự tích đầm Đỗ Lâm Kinh Nam 
29 Sự tích suối rắn Kinh Nam 
30 Truyện ngôi đền thiêng ở xã Bộ Đầu Kinh Nam 
31 Sự tích hang thuồng luồng Kinh KXĐ* 
Các lực lượng thần kì trong truyện cổ 
tích có thể được chia làm ba loại. Loại trợ 
thủ luôn có mặt giúp đỡ các nhân vật 
chính, hoặc ban tặng cho những vật thần kì 
có phép màu giúp nhân vật vượt qua trở 
ngại. Loại trung gian xuất hiện vào tay của 
người ác hay kẻ xấu đều phát huy tác dụng. 
Ở trong tay nhân vật lí tưởng thì có tác 
dụng tốt, rơi vào tay kẻ thù sẽ gây tai hoạ; 
hoặc khi nhân vật vi phạm điều cấm kị, nó 
cũng phản tác dụng. Trong một số trường 
hợp, chính tính cách của nhân vật xấu xa, 
ác độc lại làm cho nhân vật - đồ vật thần kì 
có tính chất trung gian này quay trở lại làm 
hại chính nhân vật ấy. Loại thứ ba cũng có 
khả năng thần kì không kém lực lược trợ 
thủ cho nhân vật nhưng lại là đối thủ luôn 
có mặt gây cản trở, khó khăn hoặc tìm mọi 
cách hãm hại nhân vật chính. Hình tượng 
rắn trong các truyện mà chúng tôi khảo sát 
trên thuộc loại thứ ba này. Có thể kể đến 
những biểu hiện cơ bản của hình tượng rắn 
– nhân vật yêu quái như sau: 
1. RẮN – QUÁI VẬT BẮT CÓC 
NGƯỜI 
Trong truyện cổ tích nói chung, rắn 
không phải là quái vật duy nhất có hành 
động bắt cóc người. Đôi khi hành động bắt 
cóc là của ma quỷ hay các loại yêu quái 
không rõ hình hài khác. Phần này chúng tôi 
chỉ nói đến đối tượng bắt cóc là rắn hoặc 
có hình hài rắn. 
Đối tượng bị rắn bắt cóc chủ yếu là 
phụ nữ, các cô gái chưa có chồng. Họ đang 
đi làm trên rừng, rẫy hay đang tắm một 
mình dưới sông, suối thì bị rắn bắt cóc. 
Mục đích của việc bắt cóc là về làm vợ rắn. 
Hai hình thức diễn ra sự bắt cóc thường là 
trên không trung bỗng nhiên quái vật nhào 
đến và cuốn cô gái đi (HơMênh chém Rắn 
thần, truyện A Xanh, Sự tích con đom 
đóm); hoặc quái vật ở dưới nước đột 
nhiên hiện hình và cuốn cô gái về thế giới 
của nó (Con thuồng luồng; Sự tích hồ nước 
Làng Treng, Náng Đẳm cũng có hành vi 
bắt cóc tương tự như vậy. 
Cũng có khi rắn bắt cóc cả những 
người đàn bà đã có chồng để về làm vợ nó. 
Truyện Sự tích hồ nước Làng Treng (Hrê) 
kể về vợ chồng Vu Ta Viên cùng ba đứa 
con sống với nhau hạnh phúc. Một hôm vợ 
đi giặt bị người dưới thủy cung bắt về làm 
vợ dưới thủy cung. Hàng ngày, ba đứa con 
ra bờ suối chơi với mẹ, mẹ nó giờ đã trở 
thành cô gái rất xinh đẹp nơi thủy cung và 
không muốn trở về với người chồng trên 
 35 
cạn nữa. Vu Ta Viên biết chuyện, chàng 
không bỏ cuộc quyết lập mưu dành lại vợ. 
Hàng ngày có rắn đến hỏi có thấy vợ rắn 
không thì chàng doạ giết rắn và nói rằng: Ở 
đây chỉ có vợ của tôi. Một hôm có con trăn 
to đến hỏi có thấy vợ của nó không. Vu Ta 
Viên đánh nhau với Trăn và giết được Trăn 
với sự giúp đỡ của vợ mình 
Hành động bắt cóc của rắn luôn dẫn 
đến một cuộc xung đột giữa con người và 
rắn. Hoặc đó là ông bố (có con gái bị bắt 
cóc), hoặc là người chồng (có vợ bị bắt 
cóc). Những kiểu kết cấu như thế thể hiện 
tính phổ biến của mô tuýp quái vật bắt cóc 
trong truyện cổ, mà rắn là một đại biểu cho 
tính chất bí ẩn, hung hãn của quái vật. 
Trong sâu xa nó có phản ánh tục ngoại hôn 
và tục lệ cướp dâu – một kiểu hôn nhân 
thời cổ. Hình thức này không chỉ phổ biến 
trong truyện cổ tích Việt Nam mà còn ở 
một số nước Đông Nam Á. Truyện Chàng 
Xai Khăm và đôi hài kì lạ của Lào là một ví 
dụ: Có nàng công chúa Cha Tha La xinh 
đẹp bị một con rắn khổng lồ cuốn mất và 
đưa về hang để làm vợ. Chàng Xai Khăm 
đi cứu và được một con quỷ dâng tặng đôi 
hài kì diệu (sau khi đã hàng phục nó). 
Chàng đến hang rắn, đây là một con rắn 
khổng lồ, đầu người. Được sự giúp đỡ của 
ba người đẹp (tù nhân của rắn) Xai Khăm 
đã chiến thắng rắn và lấy công chúa Cha 
Tha La xinh đẹp. 
Hai không gian diễn ra hành động bắt 
cóc của rắn thường là trên không và dưới 
nước và hành động rất nhanh, mang tính 
bất ngờ. Điều này một mặt phản ánh bản 
chất gắn với nước của rắn cũng như tính 
chất bí ẩn, hung hãn của loài yêu quái, mặt 
khác phản ánh nhận thức về thế giới tự 
nhiên của con người. Trên thực tế, rắn 
không hề biết bay mà môi trường sống của 
nó chủ yếu là dưới nước. Do vậy không có 
gì ngạc nhiên khi rắn là hình tượng được 
gắn với nước, được nhân hoá thành các vị 
thủy thần và là hình ảnh hình tượng hoá 
của các con sông, lũ lụt trong đa số các 
truyện dân gian của các dân tộc. Nếu rắn 
bắt cóc ở môi trường nước thể hiện dấu vết 
của con rắn thần thoại, gắn với nước, là vị 
thần nước, chúa tể của thế giới bên dưới thì 
hình ảnh rắn – quái vật bắt, có trên không 
trung đã phần nào được kì ảo hoá. Trong 
sự diễn hoá của mô tuýp bắt cóc, các yếu tố 
kì ảo mới đã được khoác thêm vào cho phù 
hợp với nội dung phản ánh và sự tiếp nhận 
của thế giới cổ tích. Con rắn “được kì ảo 
hoá, gắn thêm những đặc tính không phải 
của bò sát như: biết bay, tiếng gầm dữ dội, 
phun ra lửa nó trở thành con vật đại diện 
cho cái ác tột cùng trong truyện cổ tích”(4). 
Về vấn đề này K.X.Đavletôp cho rằng: 
“Truyện cổ tích xây dựng những quan 
niệm của mình về rắn không phải trên cơ 
sở thực tại mà trên cơ sở tư tưởng nguyên 
thủy. Nó tiếp nhận những hình ảnh này từ 
thần thoại, lại ở một dạng đã biến hoá hoàn 
toàn và trải qua một con đường rất dài của 
sự phát triển thần thoại”(5). Hai không gian 
như vừa nói trên là hai thế giới vẫn còn bí 
ẩn với con người. Nếu không trung hoàn 
toàn bí ẩn thì thế giới dưới nước lại vừa 
quen vừa lạ. Không phải ngẫu nhiên mà 
trong truyện cổ lại hình dung thủy cung là 
nơi đầy của cải, vàng bạc hay những hòn 
đảo nhiều châu báu. Khát vọng khám phá 
và chinh phục những vùng đất mới luôn 
thôi thúc con người. Điều này góp phần 
phản ánh quá trình mở rộng địa bàn cư trú 
của người xưa. 
 Như vậy, với tư cách là đối thủ của 
nhân vật, hình tượng rắn dạng này mang 
đặc điểm của một con vật thần kì với nhiều 
phép thuật cũng như sự hung hãn. Tính 
chất này vừa làm tăng thêm tính li kì, hấp 
 36 
dẫn cho truyện, đồng thời là yếu tố tạo nên 
“môi trường” cho những phẩm chất và tài 
năng của nhân vật chính bộc lộ; là cơ sở 
cho kết quả đền bù của kết thúc có hậu 
trong phần lớn truyện cổ tích. 
2. RẮN – QUÁI VẬT ĂN THỊT 
NGƯỜI 
Trong truyện cổ tích của người Việt, 
tính chất quái vật của rắn chủ yếu là kẻ ăn 
thịt người (Đôi khi mục đích của việc bắt 
cóc cũng là đưa về hang để ăn thịt). Tuy 
nhiên, con người không phải là đối tượng 
duy nhất mà quái vật ăn thịt. Nó ăn tất cả 
những con vật bắt được, chủ yếu là gia súc 
con người nuôi. Sự hung hãn của nó ngày 
một gia tăng cho đến lúc con người cũng là 
đối tượng bị ăn thịt. Những vùng có quái 
vật ngự trị bao giờ cuộc sống và tính mạng 
của con người cũng bị đe doạ thường trực, 
làng xóm tiêu điều. Truyện Ao Phật của 
người Khơme có đoạn: Xưa kia ở vùng đất 
Trà Vinh ngày nay, có một con Chằn tinh 
sống lâu năm dưới nước rất hung ác. Nó 
thường nổi lên mặt nước quấy phá và tìm 
cách bắt người ăn thịt. Hay truyện Con 
thuồng luồng kể: Xưa ở thôn Lùng Thàng 
có con thuồng luồng già thành tinh. Cô gái 
Ymười cũng là một nạn nhân bị bắt cóc 
đang sắp bị rắn thần PaRin ăn thịt (Hơ 
Mênh chém rắn thần) 
Để đổi lấy sự bình yên, con người phải 
cầu thân với rắn bằng cách hàng năm phải 
cúng tế cho nó: “Bấy giờ trong vùng có 
một con Chằn tinh, có nhiều phép biến hoá 
lạ kì, thường bắt người ăn thịt. Quan quân 
nhiều lần đến vây bổ muốn diệt trừ nhưng 
không làm gì được. Cuối cùng người ta 
đành phải lập cho nó một cái miếu, hàng 
năm khấn một mạng người để cho nó đỡ 
phá phách” (Thạch Sanh); hay trong truyện 
Tiêu diệt mãng xà cũng kể: ở một làng nọ 
có con mãng xà chuyên phá phách dân 
làng. Mỗi năm phải nộp cho nó một người 
con gái để nó ăn thịt. Vua cho đi tìm người 
tài và hứa sẽ gả công chúa nếu diệt được 
mãng xà Đây cũng là một trong những 
nguồn gốc của tục hiến sinh. Tục này bắt 
nguồn từ thần thoại, khi con người vẫn phụ 
thuộc hoàn toàn vào tự nhiên (nguồn nước) 
thì các nghi lễ và hình thức hiến tế dâng 
nộp cho thần rắn diễn ra một cách tự 
nguyện. Đó là có thái độ cầu thân với tự 
nhiên và mong ước mưa thuận gió hoà, lũ 
lụt không làm hại của nhân dân. Nhưng 
trong môi trường cổ tích, khi nhận thức của 
con người đã tăng lên một bậc thì việc hiến 
tế không còn tự nguyện như trước nữa mà 
đã có biểu hiện gượng ép, đau khổ. “Từ 
việc cống nộp đầy đau khổ mới xuất hiện 
thêm những chi tiết: Lừa gạt để cống nộp; 
bị lừa gạt để trở thành vật hi sinh không tự 
giác và là kẻ đối nghịch bất đắc dĩ; mượn 
tay người khác để thoát khỏi nạn bị cống 
nộp”(6). Chúng tôi cho rằng, ngoài các yếu 
tố kể trên, việc phát triển của đời sống xã 
hội và gia tăng nhận thức của con người là 
cơ sở cho việc ra đời của mô tuýp diệt rắn 
ác. Tức là từ chỗ người ta chưa hiểu biết về 
nó, “thần phục” nó và cầu thân một cách 
tuyệt đối cho đến việc muốn chinh phục và 
loại trừ rắn ác vừa là khát vọng chinh phục 
tự nhiên và nhận thức mới về tự nhiên. 
Một trong những hình thức ưa thích 
của kẻ ăn thịt là nuốt người. “Đây là chức 
năng phụ của rắn, nhưng nó luôn được 
nhấn mạnh khi nói đến rắn”(7). Hình thức 
rắn nuốt người trong các truyện kể chủ yếu 
ở hai dạng: dạng thứ nhất là chiến đấu với 
rắn và bị nuốt. Truyện Pù Chộng Cha kể 
rằng: Ngày xưa có một anh con trai ở 
Mường Quáng yêu một cô gái say đắm. Ba 
năm ở rể, không làm nhà gái hài lòng vẫn 
muốn thử thách chàng trai. Họ bắt chàng 
phải cõng cô gái qua đèo dài cả ngày 
 37 
đường mà không được nghỉ. Bằng tình yêu 
và sự thông minh, cả hai đều vượt qua đèo. 
Chàng cho nàng ngồi nghỉ và chạy về bản 
để chuẩn bị đám rước, khi chàng trở lại thì 
một con trăn to đã nuốt chửng cô gái. 
Chàng trai đánh nhau và mổ bụng trăn cứu 
người yêu nhưng nàng không còn nói được 
nữa. Hay truyện Chàng Bơ Lo hay sự tích 
sông Rin (Ca Dong) cũng có chi tiết chàng 
Bơ Lo bị xà tinh nuốt vào bụng. Trong 
cuộc đấu tranh đó xà tinh chết, chàng cũng 
chết, bà mẹ khóc đến chết, hoá thành núi 
Cai Niêng, nước mắt thành sông Rin 
Dạng thứ hai nhân vật chủ động tìm cách 
chui vào bụng rắn để làm đau nó, buộc nó 
phải phục tùng (như Tôn Ngộ Không chui 
vào bụng yêu quái). Cũng có khi con người 
(thường là cô gái) bị trói lại và chờ quái vật 
đến nuốt. (HơMênh chém Rắn thần; Chàng 
đánh cá Y Ang). 
Việc chui vào bụng rắn được thực 
hiện tương đối dễ dàng vì bản chất con 
vật rất hung hãn và luôn trong tư thế xông 
ra để nuốt chửng lấy nhân vật. Khi vừa 
thấy ông Hai, thuồng luồng đã xông ra 
toan nuốt chửng lấy chàng (Đại vương 
Hai hay là truyện giết thuồng luồng). Rõ 
ràng hành động nuốt người của rắn có liên 
quan đến sự mô phỏng hiện thực trong 
đời sống của rắn và hình thức nghi lễ 
trưởng thành thời cổ. 
Các nghi lễ vòng đời của một con 
người là hiện tượng văn hoá phổ biến của 
nhiều tộc người trên thế giới, trong đó nghi 
lễ trưởng thành đóng một vai trò rất quan 
trọng đối với từng thành viên của cộng 
đồng. Nó được xem là một trong những 
thiết chế đặc trưng trong chế độ thị tộc. 
(Mối liên hệ giữa một số mô tuýp trong 
truyện cổ tích với các nghi lễ có tính chất 
tôn giáo nguyên thủy đã được các nhà khoa 
học như: J. G. Frazer (người Anh), P. 
Saintyves (người Pháp), M. Eliade (người 
Mĩ gốc Rumani) chứng minh. Đặc biệt, 
V.Propp đã phát triển “tới một trình độ 
biến nó trở thành một niềm tin khoa học có 
cơ sở là những tài liệu vô cùng phong phú 
được khảo sát và phân tích một cách đầy 
sức thuyết phục”(8). Nghi lễ trưởng thành 
được thực hiện đối với các thành viên khi 
bắt đầu trưởng thành về mặt giới tính. Sau 
khi thực hiện nghi lễ này, cá nhân đó sẽ 
được tiếp nhận vào cộng đồng thị tộc, trở 
thành thành viên chính thức với đầy đủ tư 
cách trong cộng đồng. Tư tưởng chính của 
nghi lễ này gắn liền với quan niệm về cái 
chết và sự tái sinh. Nhờ việc chết đi và 
sống lại này mà người chịu lễ sẽ có được 
sức mạnh thần kì hoặc những hiểu biết 
quan trọng để có thể trở thành người lớn. 
“Cái chết tạm thời của người chịu lễ cũng 
được thể hiện dưới nhiều hình thức như đi 
lên trời, đi xuống âm phủ, đi vào thế giới 
của các linh hồn hay là bị một con ác thú 
nào đó như rồng, rắn, thuồng luồng hay 
thậm chí là mặt trời ăn thịt”(9). 
Theo Propp, các hình thức nghi lễ rất 
phong phú, “không theo một hình thức cố 
định nào cả nhưng có một số quy định 
được gọi là bất biến”, và thường có 
cảnh: “Người được hiến tế phải bò qua một 
công trình mô phỏng con quái vật. Ở 
những cộng đồng có nhà cửa, quái vật 
được mô phỏng là một túp lều, hoặc một 
ngôi nhà có hình dáng đặc biệt. Người 
được quái vật nuốt sau khi ra khỏi ngôi nhà 
thì dường như đã được lột xác, trở thành 
một người mới hoàn toàn khác trước”(10). 
Từ việc cầu thân, tự nguyện đến sự 
cưỡng chế trong việc cống nộp cho quái 
vật ăn thịt như đã nói ở phần trên là một sự 
vận động của tư duy thần thoại đến cổ tích, 
phản ánh thay đổi nhận thức của con người 
về thế giới tự nhiên nói chung. Từ đây xuất 
 38 
hiện tâm lí chống đối và chinh phục các 
quái vật ăn thịt. Mô tuýp dũng sĩ diệt rắn ác 
có lẽ ra đời trên cơ sở ấy. Đảm đương trách 
nhiệm chống lại sự hoành hành của quái 
vật thường là một dũng sĩ tài giỏi. Đến đây 
người dũng sĩ diệt rắn ác “sẽ là đại diện 
văn hoá, là người khám phá ra bí mật của 
tự nhiên để giải phóng con người, cải tạo 
cuộc sống và xây dựng nền văn hoá”(11). 
Việc Thạch Sanh nhận được bộ cung tên 
bằng vàng sau khi thiêu xác Chằn tinh là 
phần thưởng cho nỗ lực giải mã tự nhiên 
của con người. 
Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh với ác 
thú không phải bao giờ người dũng sĩ cũng 
chiến thắng. Nhiều khi dũng sĩ cũng bị 
nuốt, thậm chí bị chết nhưng cuối cùng 
quái vật cũng đã bị tiêu diệt. Điều đáng chú 
ý ở đây là quái vật thường bị dũng sĩ chặt 
đầu, băm thành nhiều khúc, bị tiêu hủy 
(Truyện A Xanh) Đây có lẽ không đơn 
thuần là một chiến thắng mà chiến thắng 
triệt để, hoàn toàn, dù mất mát hi sinh là có 
thật. Phải chăng chinh phục tự nhiên, vượt 
lên làm chủ tự nhiên là khát vọng muôn 
đời của người xưa, người nay và cả mai 
sau. 
Trong truyện cổ của người Việt, đôi 
khi diệt rắn ác không phải là một dũng sĩ 
tài ba. Đó có thể là ông bố bình thường vì 
thương con bị quái vật bắt cóc, ăn thịt mà 
liều mình đi giết ác thú, hay một người 
đánh cá bình thường vì căm giận ác thú mà 
hành động. Truyện Con thuồng luồng kể 
rằng! Ngày xưa, có một bác nông dân 
nghèo có một cô con gái bị thuồng luồng 
bắt mất. Bác quyết tâm đi giết thuồng 
luồng để trả thù cho con. Hay trong truyện 
Ông lão bán muối giết thuồng luồng, đối 
thủ của quái vật cũng chỉ là người bán 
muối bình thường. Rõ ràng, trong cuộc đấu 
tranh chinh phục tự nhiên, những người 
nông dân có phẩm chất bình thường trong 
nỗ lực bảo vệ thành quả lao động của mình 
đã trở thành những vị anh hùng trên mặt 
trận văn hoá. 
Để tiêu diệt quái vật, các nhân vật 
dũng sĩ không những phải có tài năng, lòng 
can đảm mà còn phải có vũ khí. Một mô 
tuýp được lặp lại nhiều lần là đối thủ của 
quái vật luôn luôn có công cụ, vũ khí bằng 
sắt như con rựa, kiếm, dao... Mỗi chi tiết, 
mô tuýp nào đó tồn tại trong truyện cổ dân 
gian đều không bao giờ vô lí và ngẫu 
nhiên. Chúng tôi cho rằng mô tuýp này ẩn 
chứa bên trong những vấn đề về văn hoá 
lịch sử cần được giải mã. 
 Theo từ điển biểu tượng văn hoá thế 
giới, Sắt là “biểu tượng của tính cường 
tráng, sự cứng rắn, tính bướng bỉnh, tính hà 
khắc thái quá, tính không lay chuyển 
được”(12). Trong khi đó thanh kiếm lại biểu 
tượng cho phẩm chất dũng cảm của nghề 
nhà binh. “Quyền lực của kiếm có hai mặt: 
nó tiêu hủy nhưng có thể tiêu hủy sự bất 
công, sự độc ác, sự ngu tối và vì vậy có tác 
dụng tích cực; và nó xây dựng, nó kiến lập 
và duy trì hoà bình và công lí” và khi kết 
hợp với cái cân, thanh kiếm có ý nghĩa 
riêng về công lí: “thanh kiếm phân biệt 
thiện á