Họ Cá rồng, là một họ cá xương nước ngọt với danh pháp khoa học Osteoglossidae, đôi
khi còn gọi là "cá lưỡi xương" (cốt thiệt ngư). Trong họ cá này, đầu của chúng nhiều
xương và thân thuôn dài được che phủ bằng các vảy lớn và nặng, với kiểu khảm ống. Các
vây lưng và vây hậu môn có các tia vây mềm và dài, trong khi vây ức và vây bụng lại
nhỏ. Tên gọi 'cá lưỡi xương' có nguồn gốc từ xương dạng răng trên phần sàn của miệng
('lưỡi'), được trang bị cùng các răng và ngoạm vào các răng ở phần trên trần của miệng.
Cá có thể thu được ôxy từ không khí bằng cách hít nó vào trong bong bóng, được bao bọc
bằng các mao mạch tương tự như phổi. Cá hải tượng (Arapaima gigas) là "cá thở không
khí cưỡng bách".
6 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Họ cá rồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Họ cá rồng
Họ Cá rồng, là một họ cá xương nước ngọt với danh pháp khoa học Osteoglossidae, đôi
khi còn gọi là "cá lưỡi xương" (cốt thiệt ngư). Trong họ cá này, đầu của chúng nhiều
xương và thân thuôn dài được che phủ bằng các vảy lớn và nặng, với kiểu khảm ống. Các
vây lưng và vây hậu môn có các tia vây mềm và dài, trong khi vây ức và vây bụng lại
nhỏ. Tên gọi 'cá lưỡi xương' có nguồn gốc từ xương dạng răng trên phần sàn của miệng
('lưỡi'), được trang bị cùng các răng và ngoạm vào các răng ở phần trên trần của miệng.
Cá có thể thu được ôxy từ không khí bằng cách hít nó vào trong bong bóng, được bao bọc
bằng các mao mạch tương tự như phổi. Cá hải tượng (Arapaima gigas) là "cá thở không
khí cưỡng bách".
Phân loại và địa động vật học
Họ Cá rồng là họ cá nguyên thủy (cơ sở) có từ hạ Đệ Tam và được đặt trong một bộ cá
vây tia có danh pháp Osteoglossiformes. Hiện tại còn 10 loài còn sinh tồn đã được miêu
tả: 3 từ Nam Mỹ, 1 từ châu Phi, 4 từ châu Á và 2 từ Australia.
Họ Osteoglossidae là họ cá nước ngọt duy nhất được tìm thấy ở cả hai bên của đường
Wallace.[2] Điều này có thể giải thích bằng thực tế là cá rồng châu Á (S. formosus) đã
phân nhánh ra khỏi hai loài ở Australia từ chi Scleropages là S. jardinii và S. leichardti
vào khoảng 140 triệu năm trước (Ma), chứng tỏ một điều rằng các dạng cá rồng châu Á
đã được lan truyền tới châu Á theo đường qua tiểu lục địa Ấn Độ.
Hành vi
Họ cá rồng là các động vật ăn thịt, thông thường chuyên ăn nổi bề mặt. Chúng nhảy rất
tốt; có thông báo cho rằng các loài trong chi Osteoglossum có thể nhảy cao tới 2 m trên
mặt nước để bắt côn trùng và chim đậu trên các cành cây ở Nam Mỹ, vì thế chúng còn
được gọi là "khỉ nước". Người ta cũng đồn đại rằng cá rồng có thể bắt những con mồi lớn
như những con dơi đang bay hay các con chim nhỏ. Tất cả các loài đều to lớn, và cá hải
tượng (Arapaima) có thể cạnh tranh chức vô địch thế giới cho các loài cá nước ngọt. Các
loài cá rồng thông thường dài khoảng 0,9-1,2 m, nhưng điều này chỉ tin tưởng được trong
phạm vi con người nuôi thả.
Một vài loài trong chi Osteoglossum thể hiện sự chăm sóc tới con cái. Chúng làm tổ và
bảo vệ các con non sau khi sinh ra. Một số loài là ấp trứng bằng miệng, cá bố mẹ đôi khi
giữ hàng trăm trứng trong miệng của chúng. Các con non có thể thực hiện vài chuyến bơi
thăm dò ra bên ngoài miệng của cha mẹ chúng trước khi rời xa vĩnh viễn.
Trong bể cảnh
Các loài cá rồng có xu hướng hợp thành bầy khoảng 5-8 con. Nên giữ chúng trong bể với
thể tích tối thiểu là 750 lít cho con đầu tiên với lọc nước tốt, và thêm khoảng 100 lít bổ
sung nữa cho mỗi con kế tiếp. Một vài loài cá có thể thích hợp để nuôi cùng cá rồng là cá
còm (Chitala ornata), cá chim trắng (vài chi của phân họ Serrasalminae), cá tai tượng Phi
châu (Astronotus ocellatus), cá tỳ bà (cá lau kính) (Hypostomus plecostomus), jaguar
cichlid (Parachromis managuensis), cá kim cương (Aequidens rivulatus), Cá sấu hỏa tiễn
(Lepisosteidae) và bất kỳ loài cá bán-hung dữ nào khác, đủ lớn để cá rồng không thể ăn
được.
Các loài cá rồng từ Australia (S. jardinii và S. leichardti) nên nuôi giữ trong bể riêng.
Văn hóa dân gian
Đối với người Việt Nam và Trung Hoa cùng các nền văn hóa tương tự, rồng là biểu
tượng của may mắn và thịnh vượng. Trong mắt của người Việt và Trung Hoa, cá rồng là
biểu hiện và sự uy nghi của rồng, đặc biệt là các vảy lớn và râu. Cá rồng cũng được sử
dụng trong phong thủy nhằm mang lại may mắn và giàu có.
Các loài
Họ này chứa hai phân họ là Heterotidinae (2 loài) và Osteoglossinae (8 loài) đã biết.
Phân họ Heterotidinae
Chi Arapaima
Arapaima gigas (Cuvier, 1829): Cá hải tượng. Nguồn gốc Nam Mỹ
Chi Heterotis
Heterotis niloticus (Cuvier, 1829): Cá rồng châu Phi, khổng tượng châu Phi, rồng
đen châu Phi. Nguồn gốc châu Phi
Phân họ Osteoglossinae
Chi Osteoglossum (Cuvier, 1829)
Osteoglossum bicirrhosum (Cuvier, 1829): Cá ngân long, cá rồng đen. Nguồn gốc
Nam Mỹ
Osteoglossum ferreirai Kanazawa, 1966: Cá hắc long, cá rồng đen. Nguồn gốc
Nam Mỹ.
Chi Scleropages
Scleropages aureus (Pouyad, Sudarto & Teugels, 2003): Kim long hồng vĩ. Nguồn
gốc châu Á
Scleropages formosus (Schlegel & Müller, 1844): Cá rồng châu Á, cá mơn, cá
thanh long. Nguồn gốc châu Á
Scleropages jardinii (Saville-Kent, 1892): Cá trân châu long, kim long Úc, châu
long Úc rằn. Nguồn gốc Australia
Scleropages legendrei (Pouyad, Sudarto & Teugels, 2003): Cá huyết long, cá rồng
đỏ. Nguồn gốc châu Á.
Scleropages leichardti Günther, 1864: Cá hồng điểm long, châu long Úc đốm sao.
Nguồn gốc Australia
Scleropages macrocephalus (Pouyad, Sudarto & Teugels, 2003): Cá thanh long
Borneo, kim long Indonesia. Nguồn gốc châu Á.
Nghiên cứu di truyền học gần đây chỉ ra rằng nhánh dẫn tới cá hải tượng và cá rồng châu
Phi đã phân nhánh vào khoảng 220 Ma, trong Hậu Trias; nhánh dẫn tới ngân long và hắc
long của Nam Mỹ đã rẽ nhánh khoảng 170 Ma, trong Trung Trias. Nhánh dẫn tới các loài
cá rồng Australia phân nhánh ra khỏi nhánh dẫn tới các loài cá rồng châu Á vào khoảng
140 Ma, trong Tiền Phấn Trắng.
Hóa thạch
Có ít nhất là 5 loài cá cổ, chỉ được biết đến từ các hóa thạch, cũng được phân loại vào họ
Osteoglossidae; chúng có niên đại vào khoảng cuối kỷ Phấn Trắng. Các hóa thạch khác
có niên đại xa hơn tới cuối kỷ Jura hay đầu kỷ Phấn Trắng nói chung được coi là thuộc về
siêu bộ cá rồng (Osteoglossomorpha). Các hóa thạch của cá dạng cá rồng được tìm thấy
trên mọi châu lục, ngoại trừ châu Nam Cực.
Chi Brychaetus
Brychaetus muelleri (Agassiz, 1845) được biết có từ cuối kỷ Phấn Trắng tới đầu thế
Paleocen. Các hóa thạch của nó được tìm thấy tại châu Âu, Bắc Mỹ, và Bắc Phi. Loài cá
nước ngọt này có các răng rất dài và cùn. Platops và Pomphractus là các danh pháp đồng
nghĩa.
Chi Joffrichthys
Chi tại Bắc Mỹ này có 2 loài là J. symmetropterus và J. triangulpterus. Loài thứ hai có từ
thế Paleocen tại tằng hệ Sentinel Butte ở Bắc Dakota, Hoa Kỳ
Chi Phareodus
Chi này có ít nhất 2 loài là P. testis (Leidy, 1873) và P. encaustus. Các đại diện được biết
đến có từ giữa thế Eocen tới thế Oligocen ở Australia và Bắc Mỹ, bao gồm tằng hệ sông
Green tại Wyoming, Hoa Kỳ.
P. testis là loài cá nước ngọt với bề ngoài hình ô van, đầu nhỏ, mõm hơi nhọn. Vây lưng
và vây hậu môn nằm ở phía sau, với vây hậu môn lớn hơn. Vây đuôi hơi chẻ. Vây bụng
nhỏ nhưng dài còn vây ngực thì hẹp. Từ đồng nghĩa Dapedoglossus.